Nhàn tình phú (Đào Tiềm): Ảo ảnh của Tình - giữ hay buông?

“Nhàn tình phú” của Đào Tiềm là một tác phẩm vang danh trong lịch sử văn học Trung Hoa. Con người ngày nay vẫn không thôi kinh ngạc vì từ thời cổ đại cách nay 1.600 năm lại có một bài phú về tình yêu tân kì, diễm lệ như thế. Càng kinh ngạc hơn khi tác giả bài phú là Đào Tiềm (Đào Uyên Minh), người được coi là ông tổ thi ca ẩn dật, một ẩn sĩ với phong cách thơ thanh đạm và chí khí thanh cao. Câu chuyện sau được chép trong Huyền mộc kí (4-17; 4-18) (Nguồn: Chanhkien.org) hé lộ nguồn gốc và thân phận thực sự của tác giả cũng như hoàn cảnh ra đời tác phẩm có thể giải phần nào giải khai những khúc mắc về danh tác này chăng.

"Trong lúc tiểu Dương Hồi đang mải suy nghĩ về những lời dì dặn dò thì Vô Lưu tiên sinh bước vào phòng, tiểu Dương Hồi bèn hỏi:

"Tiên sinh, sự yểu điệu mỹ miều của nữ nhi thì làm thế nào mới vẽ ra được?"

Vô Lưu tiên sinh ngẫm nghĩ giây lát, cầm bút lên, bắt đầu dạy tiểu Dương Hồi cách vẽ.

Tiểu Dương Hồi cứ chăm chú vẽ, chợt ngừng lại hỏi:

"Tiên sinh, ngài có thể vẽ được người con gái đẹp nhất thế gian không?"

Vô Lưu tiên sinh mỉm cười nói:

"Mỗi loài hoa mỗi góc nhìn, mỗi loài đều có vẻ đẹp riêng của nó, thế nào là đẹp nhất chứ?"

Tiểu Dương Hồi lại hỏi:

"Vậy trong mắt ngài, người con gái như thế nào là đẹp nhất?"

Vô Lưu tiên sinh đang vẽ liền ngừng bút, liếc nhìn tiểu Dương Hồi, rồi lại nhìn ra ngoài cửa sổ, không nói lời nào.

"Tiên sinh đúng là cao nhân mà, ngài vẽ cho con một bức đi!" Tiểu Dương Hồi nũng nịu nói.

Thế là Vô Lưu tiên sinh lấy ra một mảnh lụa mới và bắt đầu vẽ...

Vô Lưu tiên sinh bắt đầu vẽ từ cảnh sông núi, thấp thoáng trên núi là những chú hạc tiên và những đám mây lành bay lơ lửng, trên sườn núi vẽ một Đạo đài. Bên cạnh Đạo đài vẽ một bàn cờ và cạnh bàn cờ có hai người đang đứng. Một người trong đó cầm cây sáo trên tay, hai tay vung lên như muốn bỏ chạy. Phía sau có một người khác đang đuổi theo người cầm sáo này...

Tiểu Dương Hồi hỏi:

"Ngài vẽ những thứ này là gì chứ? Con muốn xem mỹ nữ cơ!"

Sau khi hoàn thành nốt các chi tiết phụ trợ xung quanh bức vẽ, cuối cùng Vô Lưu tiên sinh vẽ đến “mỹ nữ”. Ngài chầm chậm phác ra một bé gái ở giữa tấm lụa. Cô bé này mặc bộ váy áo vàng nhạt màu lông ngỗng, có hai búi tóc trên đầu, trông rất hoạt bát dễ thương. Cô đang lấy tay che miệng, nghiêng người mỉm cười, nhưng hơi tiếc đây chỉ là bức ảnh nhìn từ sau lưng.

Vẽ đến đây, Vô Lưu tiên sinh dừng bút, hỏi:

"Vẽ xong rồi đó, tiểu cô nương xem cô ấy có đẹp hay không?"

Tiểu Dương Hồi đáp:

"Ngay cả khuôn mặt còn không nhìn thấy, đẹp ở chỗ nào được?"

Vô Lưu tiên sinh nói tiếp:

“Ta lại thấy rằng đây là đẹp nhất rồi đó”.

Tiểu Dương Hồi cãi lại:

"Khẩu vị của tiên sinh quả là độc đáo đó".

Vô Lưu mỉm cười, quay mặt đi tiếp tục dạy cô, nói:

"Được rồi, ta vẽ xong cho con rồi đó, đến giờ lên lớp rồi".

Vô Lưu thấy tiểu Dương Hồi bĩu môi, tỏ ý không mấy hài lòng, bèn dỗ dành:

"Cô nương à, mỹ nhân nằm ở cốt cách chứ không phải vỏ ngoài, họa bì nan họa cốt, họa cốt tất phải vô hình. Vừa rồi ta cũng định vẽ khuôn mặt cô ấy, nhưng chưa chắc con sẽ thấy đẹp, bởi vì con mắt nhìn của mỗi người khác nhau, gu thẩm mỹ vì vậy sẽ khác nhau".

"Họa cốt tất sẽ không có hình tướng. Vậy thế nào là hữu hình trong vô hình nhỉ?" Tiểu Dương Hồi hỏi.

Vô Lưu tiên sinh giải thích:

"Vô hình tất phải mượn từ ngữ".

Nói xong, tiên sinh lại lấy ra một mảnh lụa khác rồi viết ba chữ ở rìa bên phải của mảnh lụa. Ba chữ này ngày sau đã được truyền bá khắp thế gian… Ba chữ ấy chính là “Nhàn Tình phú” .

Tiểu Dương Hồi thấy Vô Lưu tiên sinh dùng thư pháp tuyệt đẹp, viết:

Ôi dung nhan lộng lẫy lạ kỳ,
Vẻ đẹp vô song giữa nhân gian rộng lớn.
Khoe nhan sắc khuynh thành say đắm,
Khắp tiếng vang đức hạnh truyền đời.
Ngọc sáng leng keng sánh với vẻ trong veo thuần khiết,
Cùng nhánh lan rừng đua tỏa ngát hương thơm;
Chữ tình nhạt nhòa nơi thế gian dung tục,
Ý chí thanh cao gửi gắm vào những áng mây xa.
Buồn những tia nắng mai dễ dàng tắt lịm trong đêm tối,
Ngậm ngùi rượu lê đắng hay rơi lệ bởi đau thương;
Quay trở về đi với bản nguyên chân thật,
Con đường chỉ mình ta ôm nỗi niềm bất tận thê lương...

(Sau khi Phong Tiềm chuyển sinh thành nhà thơ vào thời Tấn, ông nhớ lại bài thơ đã từng viết ở tiền kiếp, nhờ đó áng thơ "Nhàn Tình phú" sáng tác thuở nào cũng theo đó mà lưu truyền thiên cổ)

Tiểu Dương Hồi hỏi lại:

"Quay trở về đi với bản nguyên chân thật, cô ấy chết rồi à?"

Vô Lưu tiên sinh ngừng bút, gật nhẹ đầu.

"Chữ tình nhạt nhòa nơi thế gian dung tục, Ý chí thanh cao gửi gắm vào những áng mây xa... Điều này có nghĩa là gì vậy, tiên sinh?"

Vô Lưu tiên sinh giải thích:

"Thì giống như là cái tình ủy mị yếu đuối của nữ nhi thông thường thì ở cô ấy lại rất nhạt nhòa đạm bạc, còn ý chí của cô ấy rất thoát tục và cũng rất cao siêu".

"Ồ, vậy ý chí của cô ấy là gì?" Tiểu Dương Hồi lại hỏi.

"Là bảo hộ, cho tất cả quần sinh", Vô Lưu tiên sinh trả lời.

"Ngậm ngùi rượu lê đắng hay rơi lệ bởi đau thương có nghĩa là gì?"

"Có một loại rượu gọi là Lê Hoa Lệ".

Vô Lưu tiên sinh trả lời xong lại tiếp tục viết:

...Ước làm chiếc cổ áo,
Hưởng dư hương phấn hoa,
Ngủ, áo nàng lại cởi,
Trách đêm thu thật dài,
Ước làm đai xiêm áo,
Ôm sát mảnh eo thon,
Buồn nóng lạnh dị thường,
Xiêm y nàng thay mới,
Áo cũ nới bỏ đi.
Ước làm dầu dưỡng mượt,
Nhẹ chải mái tóc mềm,
Xõa vai thon mảnh khảnh,
Hờn giai nhân năng gội,
Nước cuốn đi chẳng còn.
Ước làm chỉ kẻ mày,
Vẽ mắt huyền liếc nhẹ, 

Phấn sáp chuộng tân kỳ,
Sợ cũ nàng lại bỏ…

Tiểu Dương Hồi đọc bài phú này, kinh ngạc thốt lên:

"Tiên sinh, đây quả là một người con gái rất mỹ miều, rất đặc biệt và rất xuất sắc đó! Đã khiến trái tim ngài phải đau đáu ngưỡng mộ đến mức này!"

Vô Lưu tiên sinh nhếch môi cười nhạt, rồi lại tiếp tục viết:

Ước làm chiếu cói nhỏ,
An Thần thể ba thu...

Tiểu Dương Hồi tròn xoe mắt ngạc nhiên, hỏi:

"An Thần thể ba thu? Cô ấy là Nữ thần sao?"

Vô Lưu tiên sinh ngẩng đầu lên, nhìn chăm chăm vào Tiểu Dương Hồi, đáp:

"Cô ấy chính là cô gái trong bức tranh mà con vừa nhìn thấy, cô bé mặc bộ váy áo màu vàng lông ngỗng, hai bên bím tóc búi cao, vị tiểu cô nương đó đang nghiêng người mỉm cười".

Tiểu Dương Hồi cảm thấy sững sờ, ngẫm nghĩ giây lát, nói:

"Xem ra bức họa này tuy vô hình tướng nhưng quả thực phi thường mỹ diệu".

Nói xong, khóe miệng miễn cưỡng nhoẻn lên cười, rồi vẫn cố nài thêm:

"Chưa được, Tiên sinh, con vẫn là muốn thấy dung nhan chân thực của cô gái này! Vô Lưu tiên sinh tài hoa vẹn toàn, ngài đã thấy được vẻ đẹp hoàn mỹ của cô gái ấy, nhất định là cực kỳ xinh đẹp. Con thực sự cũng muốn trông thấy..."

Nhưng bất luận cô có nài nỉ thế nào đi nữa thì Vô Lưu vẫn cự tuyệt không vẽ chính diện khuôn mặt để cô xem.

Lúc này, dì Từ Quang của cô bước vào phòng, nhìn thấy bức tranh, chỉ cần liếc mắt một cái bà liền biết ngay đây là Ngọc Kinh sơn, và thời điểm cũng là lúc bọn họ đương cùng nhau học Đạo ở đây... Đột nhiên, cảm giác thời gian đằng đẵng đã khiến vạn vật vô thường đổi dời theo năm tháng dâng lên một nỗi niềm khó tả tràn ngập trong lòng, khiến bà bất giác rơi nước mắt. Rồi nhân lúc Dương Hồi không để ý, liền mau chóng lau đi, rồi nói:

"Cô nương, đến giờ dùng bữa trưa rồi, chúng ta đi thôi".

Hết trích Huyền mộc kí. Sau đây mời bạn đọc toàn bộ bài phú:

閑情賦  NHÀN TÌNH PHÚ

Tác giả: 陶潛 Đào Tiềm (365 – 427)

Nguyên văn:

初張衡作《定情賦》,蔡邕作《靜情賦》,檢逸辭而宗澹泊,始則蕩以思慮,而終歸閑正。將以抑流宕之邪心,諒有助於諷諫。綴文之士,奕代繼作,並因觸類,廣其辭義。余園閭多暇,復染翰為之。雖文妙不足,庶不謬作者之意乎?
夫何環逸之令姿,獨曠世以秀群。
表傾城之艷色,期有德於傳聞。
佩鳴玉以比絜,齊幽蘭以爭芬;
淡柔情於俗內,負雅志於高雲。
悲晨曦之易夕,感人生之長勤。
同一盡於百年,何歡寡而愁殷。
褰朱幃而正坐,汎清瑟以自欣;
送纖指之餘好,攘皓袖之繽紛。
瞬美目以流眄,含言笑而不分。
曲調將半,景落西軒。
悲商叩林,白雲依山。
仰睇天路,俯促鳴絃。
神儀嫵媚,舉止詳妍。
激清音以感余,願接膝以交言。
欲自往以結誓,懼冒禮之為碹。
待鳳鳥以致辭,恐他人之我先。
意惶惑而靡寧,魂須臾而九遷。
願在衣而為領,承華首之餘芳;
悲羅襟之宵離,怨秋夜之未央。
願在裳而為帶,束窈窕之纖身;
嗟溫涼之異氣,或脫故而服新。
願在髮而為澤,刷玄鬢於頹肩;
悲佳人之屢沐,從白水以枯煎。
願在眉而為黛,隨瞻視以閑揚;
悲脂粉之尚鮮,或取毀於華粧。
願在莞而為席,安弱體於三秋;
悲文茵之代御,方經年而見求。
願在絲而為履,附素足以周旋;
悲行止之有節,空委棄於床前。
願在晝而為影,常依形而西東;
悲高樹之多蔭,慨有時而不同。
願在夜而為燭,照玉容於兩楹;
悲扶桑之舒光,奄滅景而藏明。
願在竹而為扇,含淒飆於柔握;
悲白露之晨零,顧襟袖以緬邈。
願在木而為桐,作膝上之鳴琴;
悲樂極以哀來,終推我而輟音。
考所願而必違,徒契契以苦心。
擁勞情而罔訴,步容與於南林。
栖木蘭之遺露,翳青松之餘陰。
儻行行之有覿,交欣懼於中号。
竟寂寞而無見,獨悁想以空尋。
斂輕裾以復路,瞻夕陽而流歎。
步徙倚以(志)〔忘 趣,色慘悽而矜顏。
葉燮燮以去條,氣淒凄而就寒。
日負影以偕沒,月媚景於雲端。
鳥悽聲以孤歸,獸索偶而不還。
悼當年之晚暮,恨茲歲之欲殫。
思宵夢以從之,神飄颻而不安。
若憑舟之失棹,譬緣崖而無攀。
于時畢昴盈軒,北風淒淒。
国国不寐,眾念徘徊。
起攝帶以伺晨,繁霜粲於素階。
雞斂翅而未鳴,笛流遠以清哀,
始妙密以閑和,終寥亮而藏摧。
意夫人之在茲,託行雲以送懷。
行雲逝而無語,時奄冉而就過。
徒勤思以自悲,終阻山而帶河。
迎清風以祛累,寄弱志於歸波。
尤蔓草之為會,誦邵南之餘歌。
坦萬慮以存誠,憩遙情於八遐。

Bản dịch:

Ôi ! Dung nhan lộng lẫy lạ kỳ, vẻ vô song giữa cõi người;
Khoe sắc đẹp a khuynh thành, từng nghe nết lành truyền đời.
Ngọc leng keng a sánh vẻ trong, cùng tranh thơm a đoá lan tươi;
Tình dịu dàng a giữa cõi trần, chí cao nhã a nơi mây xuôi.

Than mặt trời a chiều dễ rụng, ngậm ngùi a đau kiếp người;
Thoáng trăm năm a trọn kiếp này, sao lắm buồn mà ít vui!
Vén trướng hồng a ngồi ngay ngắn, dạo đàn trong a ai tự cười,
Ngón thon đưa a nhanh thoăn thoắt, tay áo múa a trắng bời bời;
Mắt chớp động a như xao sóng, miệng như nói a hay như cười.

Nhạc ngân nửa khúc, chiều lặn hiên tây, gió thu rừng động, mây núi nương trôi.
Ngẩng xem thiên không, cúi giục đàn cầm, thần thái cương nghị, cử chỉ thảnh thơi.

Tiếng trong kia a sao giục lòng, muốn kề vai a ta trao lời.
Muốn được cùng a ta thề nguyền, lễ vật mọn a nên ngậm ngùi
Phượng hoàng bay a ta ngỏ ý, đến trước ta a e có người.
Hồn điên đảo a biết bao lần, lòng thấp thỏm a không nguôi.

Ước được làm cổ áo
Son phấn hưởng dư hương.
Ngủ, áo nàng lại cởi
Sao tối mãi đếm trường!

Ước được làm đai xiêm
Bó sát eo lưng nhỏ.
Oán thời tiết thất thường
Xiêm thay mới nới cũ!

Nguyện làm dầu chải tóc
Đen nhánh xoã vai thon
Trách người đẹp năng gội
Nước cuốn đi chẳng còn!

Nguyện làm chỉ kẻ mày
Theo mắt huyền nghiêng ngửa.
Trang điểm chuộng tân kỳ
Sợ rồi nàng lại bỏ!

Nguyện làm chiếc chiếu cỏ
Ba thu lót thân mềm.
Đông về thay đệm ấm
Chiếu năm sau mới cần!

Nguyện thành tơ làm dép
Ôm chân trắng nõn nường.
Buồn thay đi rồi nghỉ
Lại tháo quẳng đầu giường!

Ước được như chiếc bóng
Bám nửa bước chẳng rời
Buồn thay cây rộng tán
Bóng phải từ giã người!

Ước được như nến đèn
Soi mặt ngọc đêm đêm.
Buồn khi ánh dương lên
Nến đèn như vụt tắt!

Ước thành tre làm quạt
gió mát phẩy tay ngà.
Tinh mơ sương điểm giọt
Tay quạt lại lìa xa!

Ước thành đàn ngô đồng
Luôn gối đầu tay ấp.
Hết vui thôi lại buồn
Tiếng tơ rồi cũng dứt!

Bao nhiêu ước nguyện chẳng thành
Khổ tâm rốt cuộc chung tình vẫn không.

Lòng dàu dàu không nơi tỏ, bước bối rối giữa rừng nam.
Ẩn tùng xanh ngằn ngặt bóng, ta nằm lẫn dưới lan tàn.
Thảng bồi hồi tưởng gặp gỡ, lòng sung sướng thoắt hoang mang.
Mà dáng em rồi biến mất, riêng nhớ nhung luống bàn hoàn.
Xốc lại áo về đường cũ, trông bóng chiều mãi thở than.
Về chốn nào chăng biết nữa, thân đau khổ mặt u tàn.
Lá rào rào lìa cành gió, trời trong trẻo khí lạnh sang.
Mặt trời kia đã chìm bóng, trăng vẫn chiếu rỡ phong quang.
Chim bay đi kêu cô độc, thú tìm đôi chửa quy hoàn.
Ta thương ta già đã đến, hận trai tráng vút bóng câu.
Ta thấy ta theo em đó, đến nỗi tim a dàu dàu.
Như lên thuyền chèo rơi mất, như leo núi chẳng dây leo.

Lúc đó: 
Tinh tú đầy song, gió bắc lạnh lẽo, 
Bồn chồn không ngủ, ngàn mối vấn vương.
Dậy mặc xiêm đợi trời sáng, rờ rỡ ngắm lúc tinh sương.
Gà thu cánh mà chẳng gáy, sáo trong trẻo mà thê lương,
Mới nhỏ nhẹ và hiền hòa, sau réo rắt rồi chán chường.
Ta tưởng như em ở đây, dạo Hành vân trút yêu thương
Mây bay xa mà lặng lặng, đời vụt vụt đang trôi qua.
Lại nhớ nhung lại sầu thảm, núi ngăn trở sông thiết tha ;
Đón gió mát bớt phiền lụy, gửi chút tình nơi nước sa.

Nào dám trách chuyện hò hẹn, hát tiếp bài Thiệu Nam ca;
Tỏ băn khoăn lòng thành ấy, mà nhắn nhủ chút tình xa.

(GS Nguyễn Khắc Phi trích dịch Mười điều ước, đã đăng ở tuần báo Văn nghệ ngày 7-3- 1998. Các đoạn phú do Trần Trọng Dương dịch)

Có một vài khác biệt giữa bản dịch trong "Huyền mộc ký" và bản dịch của GS Nguyễn Khắc Phi, Trần Trọng Dương. Nếu quan tâm, mời bạn tìm đọc “Huyền mộc ký” trên Chanhkien.org sẽ lí giải được. Có người cho rằng đối tượng trữ tình trong bài phú là con người lý tưởng của nhà Nho như người đẹp trong thơ Khuất Nguyên, cũng có người cho rằng đó là người đẹp trong mộng của tác giả. Còn cô bé Dương Hồi trong câu chuyện trên cho rằng cô ấy là một Nữ thần. Cảnh giới tư tưởng khác nhau âu sẽ dẫn đến những cách lý giải khác nhau

Bài phú mở đầu bằng lời ngợi ca dung nhan tuyệt sắc và khí chất thanh cao của người con gái – một vẻ đẹp “khuynh thành”, “vô song giữa cõi người”. Vẻ đẹp ấy không chỉ khiến người ngắm mê đắm mà còn khơi gợi một tình cảm sâu sắc, chân thành, cao thượng, vị tha từ người trữ tình.

Tiếp theo, tác giả bộc lộ nỗi lòng si mê bằng một chuỗi ước nguyện hóa thân thành những vật dụng thân cận bên người đẹp: cổ áo, đai áo, dầu chải tóc, chỉ kẻ mày, chiếu, dép, nến, bóng, quạt, đàn... Tất cả đều cho thấy khát vọng được gần gũi, gắn bó, dù chỉ là trong vai trò âm thầm và lặng lẽ. Tuy nhiên, xen lẫn trong những ước nguyện là nỗi buồn: mọi thứ rồi cũng bị thay thế, bỏ rơi, phai nhạt theo thời gian, như chính mối tình đơn phương kia.

Đoạn cuối bài phú là nỗi trống vắng hoài niệm thiết tha của tác giả khi người con gái chỉ như bóng hình trong mộng: thoáng qua rồi biến mất, để lại chàng lạc lõng giữa đất trời. Hình ảnh “rừng tùng”, “lan tàn”, “gió lạnh”, “chim cô độc”, “trăng chiếu rỡ”... gợi nên một không gian u hoài, vĩnh biệt – nơi người đã đi, còn chàng thì mãi mắc kẹt trong hoài niệm.

Ngôn ngữ trau chuốt, sử dụng nhiều từ láy, nhịp điệu dân gian (“a khuynh thành”, “a đoá lan tươi”, “a trắng bời bời”) tạo nên âm hưởng thiết tha, mơ màng. Bút pháp tượng trưng và ẩn dụ (hóa thân thành đồ vật) thể hiện tình cảm một cách kín đáo nhưng sâu sắc. Cảm xúc chuyển biến từ mê đắm sang cô đơn, từ khát khao sang tuyệt vọng, rất mạch lạc và tinh tế.

Đây là một bài phú trữ tình đặc sắc, thể hiện một tình yêu tha thiết mà tuyệt vọng, cái đẹp thì huy hoàng nhưng tình cảm thì mong manh. Như một vầng trăng sáng vằng vặc nhưng lạnh lẽo. Nó cho ta cảm giác như đang nghe một khúc nhạc cổ vang vọng từ thiên đình, nói về tình yêu dang dở giày vò tâm can những người không thể thoát khỏi chữ “tình”.

Ảo ảnh của tình, nên giữ hay buông!