Hầu hết người Việt Nam đều biết giai thoại liên quan đến quả vải – thời trân của nước Việt. Đó là câu chuyện Dương Quý Phi - thiếp yêu của Vua Đường Huyền Tông vô cùng yêu thích hương vị của quả vải. Vì thế mà lệ cống nạp trái vải hàng năm đối với nước ta khi ấy càng trở nên gay gắt.
Chiều lòng người đẹp, hàng năm, đến mùa vải chín, Vua Đường Huyền Tông bắt cống nạp thường xuyên hơn, các phu trại phải ngày đêm hoả tốc mang quả lệ chi về tiến cống. Vì thế mà quả vải còn có tên gọi khác " Phi tử tiếu" tức là nụ cười của Dương Quý Phi. Nói như thế, để thấy rằng " quả vải" thật xứng là đệ nhất quả của nước Nam.
Nhưng ít ai biết, từ thời Bắc thuộc lần thứ nhất, khi ấy nước Việt Nam được gọi là Quận Giao Chỉ - Lê Chân. Quả vải ( lệ chi) ngon nức tiếng cũng nằm trong danh sách cống nạp cho "thiên triều". Cuốn sách cổ "Tiền Hán Thư" chép rằng, giống lệ chi ở xứ Giao Chỉ rất thơm ngon mà các nơi khác ở "thiên triều" không hề có. Hán Vũ Đế (năm 111 TCN) cũng vô cùng yêu thích loài quả này, vì thế ông sai đem 100 cây vải từ Giao Chỉ về trồng nhưng trên đường vận chuyển, tất cả các cây đều chết vì giá lạnh . Từ đó, ngoài việc phải cống nạp rất nhiều sản vật trù phú của nước Nam, có lệ cống nạp quả vải.
Trong cuốn Vân Đài loại ngữ, Lê Quý Đôn cũng ca ngợi quả vải "mã ngoài như lụa hồng, tơ tía, thịt vải như thủy tinh". Có thể thấy quả vải được cả hương vị, cả sắc. Mùa vải chín, cả vườn vải lúc lỉu những chùm quả đỏ hồng thật rực rỡ thích mắt, làm người ta liên tưởng đến những viên hồng ngọc lóng lánh.
Vua Minh Mạng cho đúc Cửu đỉnh tập hợp tất cả những giá trị tinh hoa đại diện cho Văn Hóa Việt Nam, có chạm khắc hình tượng cây vải vào Huyền đỉnh. Lời Người chỉ dụ :
"Những họa tiết ẩn dụ về hình tượng mặt trời, mặt trăng, gió, mưa, sấm, chớp, sông, núi, cửa biển, cửa quan, cây gỗ, loài hoa, chim chóc, loài cá, ngũ cốc, linh vật, rau, đậu, củ, quả, xe, thuyền, vũ khí… của đất nước được tinh chọn, phân ra từng nhóm, mỗi nhóm lại chọn ra chín loại, được sắp xếp và tuân thủ theo “quan niệm, triết học, chức năng, vị trí của mỗi đỉnh”
Và quả vải được đặc ân nằm trong số 9 loại cây lấy quả:
1. Ba La Mật (quả mít); 2. Am La (quả xoài); 4. Lê (quả lê); 5. Mai (quả mơ - mận trắng); 6. Xích Ty Đào (đào đất - đào tơ); 7. Súc Sa Mật (sa nhân); Long Nhãn (quả nhãn); 8. Lệ Chi (quả vải); 9. Miên (bông gòn).
( Đoạn trích theo tác giả Dương Phước Thu - Đất nước Việt Nam qua Cửu đỉnh Huế )
QUẢ VẢI Ở NƯỚC TA CÓ NHỮNG GIỐNG NÀO?
Lê Quý Đôn (cuối thế kỷ XVIII), nói về quả vải như sau: "Nước Nam sản xuất trái lệ chi nhiều nhất. Thứ trái lệ chi ở xã An Nhơn (tức là Yên Nhân), huyện Đường Hào là ngon, ngọt và thơm không thể nào tả được". Quả vải ở đây quả to, ngọt hơi có vị chua hậu.
Theo sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” cũng nhắc đến những vùng vải ngon là thuộc địa phận Huyện Mỹ Hào, Tỉnh Hưng Yên ngày nay: "Vải: xã Hòa Nhuệ, huyện Tứ Kỳ và xã Tử Nham, huyện Đông Triều; vải ngon thì ở xã Yên Nhân huyện Đường Hào" (tập 3, trang 40).
Đến đời vua Mai Hắc Đế (thế kỷ thứ 8), cây vải được chuyển nhân giống ra Hồng Châu (Hải Dương). Với lợi thế thổ nhưỡng được bồi đắp bởi dòng sông Hồng và sông Thái Bình, Vùng Thanh Hà vì thế mà có đất đai màu mỡ phù sa , trái vải vì thế rất ngon ngọt và sai quả.
Đến thế kỉ 20, dưới thời vua Tự Đức, năm 1870, cụ Hoàng Văn Thành đã mang hạt cây vải thiều Trung Quốc về ươm. Cụ ươm 3 hạt nhưng chỉ sống sót được một cây, trở thành cây vải tổ. Nhờ đó, những vườn vải thiều đã được nhân giống rộng khắp huyện Thanh Hà, trở thành vựa đất trồng vải nổi tiếng hiện nay. Hiện cây vải tổ đã hơn 150 tuổi ở Thúy Lâm, xã Thanh Sơn, huyện Thanh Hà. Nhớ ơn cụ Hoàng Văn Thành, người dân gọi tên cụ thành Hoàng Văn Cơm.
Vải thiều được ưa thích bởi quả bé nhưng hạt nhỏ xíu, ngọt đậm. Quả có đường kính khoảng 3.3 đến 3.5 cm, vỏ sần, chín đỏ hồng, trong khi các giống vải thường chín sớm thì vải thường chín vào tháng 5-6 Âm lịch.
Ngoài giống vải thiều được yêu thích ở Thanh Hà, Hải Dương, người dân cũng rất yêu thích quả vải từ Đông Triều, Quảng Ninh; vải thiều ở Lục Nam, Lục Ngạn, Bắc Giang, vải thiều ở Bát Trang, Hải Phòng. Vải thiều Thanh Hà khi chín đỏ ngả hồng, còn vải thiều Bắc Giang đỏ ửng có màu bắt mắt. Quả vải thiều Việt Nam đã được xuất khẩu sang nhiều nước, thị trường lâu đời là Trung Quốc, các thị trường tiềm năng là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Malaysia; UAE, Singapore, Trung Đông, Thái Lan …
Giống vải thiều thuộc vào nhóm giống vải ngọt. Hiện nay ở Việt Nam, còn có các giống vải khác. Giống vải chua, còn gọi là U trứng, Vải Tu Hú là giống vải lâu đời, hạt to, chất lượng không đều, vị hơi chua hậu nên không phát triển, thường chín sớm nhất vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 và gắn liền với mùa Tu hú kêu gọi bầy, báo hiệu mùa vải chín. Giống vải nhỡ (U hồng) quả nhỡ, hơi chua, chín sau vải Tu Hú vào đầu tháng 5. Có các giống vải như :vải Hùng Long, vải lai Yên Hưng, vải Bình Khê, vải Phú Hộ … đều thuộc hai nhóm này. Mới đây, thị trường Việt Nam lại chứng kiến sự ra đời của giống vải ngọc không hạt (giống nhập khẩu) được trồng tại Thanh Hóa. Vải ngọc không hạt vỏ đỏ rực, cùi mọng, giòn, vị ngọt đậm đà, đã có những lô xuất khẩu đầu tiên sang Anh, Châu Âu và Nhật Bản. Giá vải ngọc tương đối cao, gấp 7-9 lần vải thông thường.
Cùng là một giống vải, thế nhưng khi được trồng ở đất Việt Nam, thổ nhưỡng đặc biệt vùng Xích Đạo dù có phần khắc nghiệt đã mang đến cho quả vải hương vị đậm đà, ngon ngọt đặc biệt khó sánh được. Cũng giống như con người nơi đây, dù chịu nhiều khó khăn vất vả nhưng càng trở nên những con người vững chãi, giàu nghị lực sống.
Mùa vải chín, cả miệt vườn phủ một màu ửng đỏ trên nền xanh thẫm của lá cây. Khách du lịch nhiều nơi cũng nô nức về đây thăm, chụp ảnh và thưởng thức quả vải chín ngay trong vườn. Trên phố, những chiếc xe chở đầy vải đỏ hồng thật đẹp mắt. Nhiều khách nước ngoài bày tỏ niềm yêu thích với trái vải Việt Nam, đặc biệt là vải thiều. Ông George Burchett, nhà báo từ Úc chia sẻ :"Đây là loại trái cây ưa thích của tôi, giống như món quà được ban xuống từ thiên đường". Quả vải là niềm tự hào của đất nước Việt Nam ta.
Hoàng Thu