1. CUỘC ĐỜI
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380, quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau dời đến làng Ngọc Ổi, trấn Sơn Nam Thượng, huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội). Thân phụ là Nguyễn Ứng Long (sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh) vốn là học trò nghèo, thi đỗ Thái học sinh. Thân mẫu là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ (chức quan ) Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc.
Nguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà Trần suy vi, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh. Cả Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi đều làm quan cho nhà Hồ. Nhưng chẳng bao lâu quân Minh sang cướp nước ta, chúng bắt cha con Hồ Quý Ly cùng các triều thần đem về Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Tương truyền lúc ấy, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu, đã cùng em trai sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về và bị giặc bắt giữ ở Đông Quan. Nguyễn Trãi bỏ trốn, tìm theo Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách (Kế sách đánh đuổi quân Minh) và được Lê Lợi tin dùng. Ông trở thành quân sư số một của Lê Lợi. Từ đó bắt đầu một đoạn đời đắc chí, hào hùng. Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, cùng Lê Lợi bàn mưu tính kế, giúp Lê Lợi soạn các loại văn thư, chiếu lệnh, góp công lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước. Sau khi đuổi xong giặc nước, Nguyễn Trãi chưa kịp thực hiện hoài bão xây dựng đất nước thái bình thịnh trị, vua dân hoà mục (vua dân hoà thuận, êm ấm) như ông hằng mong ước, thì cuộc đời chuyển sang giai đoạn khó khăn và bi thảm. Sau thắng lợi một năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn mưu phản, sai quân bắt tội, khiến vị danh tướng này phải nhảy xuống sông tự vẫn. Trần Nguyên Hãn là cháu nội quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, cho nên Nguyễn Trãi cũng bị bắt. Sau khi được tha, ông không được tin dùng nữa. Suốt mười năm (1429 - 1439), Nguyễn Trãi chỉ được giao những chức “nhàn quan”, không có thực quyền. Năm 1439, Nguyễn Trãi xin cáo quan về ở Côn Sơn, nhưng chỉ mấy tháng sau, vua Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc nước. Nguyễn Trãi đang hi vọng một thời cơ mới thì thật không may, chỉ ba năm sau, một thảm họa đã giáng xuống. Vụ án Lệ Chi Viên, vụ án oan lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đã cướp đi sinh mệnh, khiến ông mãi mãi không còn cơ hội thực hiện hoài bão của mình.
2. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
2.1. Tác phẩm của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Ông đã để lại cho nước nhà một di sản to lớn về các mặt quân sự, văn hoá, văn học.
Tác phẩm của Nguyễn Trãi cũng phải chịu một số phận long đong. Sau khi ông mất, nhiều tác phẩm từng bị ra lệnh tiêu huỷ. Hai mươi lăm năm sau, Lê Thánh Tông truyền lệnh sưu tầm tác phẩm của Nguyễn Trãi, nhưng rồi lại bị thất tán. Mãi đến đầu thế kỉ XIX, tác phẩm của ông mới được tìm lại và nửa cuối thế kỉ XIX mới được khắc in. Chỉ nhờ vào tình yêu thơ văn Nguyễn Trãi của biết bao thế hệ, các tác phẩm ấy mới được bảo tồn.
Về quân sự và chính trị, Nguyễn Trãi có Quân trung từ mệnh tập, gồm một số thư từ, biểu, quân lệnh gửi cho các tướng của ta và những bức thư ông nhân danh Lê Lợi viết để giao thiệp với các tướng nhà Minh, thực hiện kế hoạch “đánh vào lòng người”. Đại cáo bình Ngô là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, một văn kiện tổng kết đầy đủ và xúc động về cuộc kháng chiến anh dũng chống quân Minh và cũng là một bản tuyên ngôn về lòng yêu hoà bình của nhân dân ta. Ngoài bài Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi còn soạn 28 bài gồm phú, chiếu, biểu, tấu, bi kí, lục,... Trong đó đáng chú ý là bài Phú núi Chí Linh, Chuyện cũ về cụ Băng Hồ (Băng Hồ là tên hiệu của Trần Nguyên Đán)
Về lịch sử, các tác phẩm Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng của Nguyễn Trãi đã ghi lại quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, khẳng định tư tưởng gắn bó với nhân dân là điều kiện tiên quyết của mọi thắng lợi.
Dư địa chí là tác phẩm địa lí xưa nhất còn lại của nước ta, ngoài giá trị địa lí còn có giá trị lịch sử và dân tộc học.
Về văn học, Nguyễn Trãi có Ức Trai thi tập, tập thơ chữ Hán và Quốc âm thi tập, tập thơ chữ Nôm. Quốc âm thi tập đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca tiếng Việt.
2.2. Thơ văn Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên
Nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân. Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Trãi đã thoát khỏi tư tưởng trung hiếu nhỏ hẹp, đặt lòng yêu nước, thương dân lên trên hết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
(Đại cáo bình Ngô)
Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn - đó là tư tưởng chủ đạo suốt đời của Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập với chiến lược “công tâm” toát lên tư tưởng hòa bình “để nhân dân nghỉ sức”. Sau khi đất nước thanh bình, ông ước mong có một chế độ sáng suốt để muôn dân được sống hạnh phúc:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
(Bảo kính cảnh giới, 43)
Ông nhìn ra sức mạnh vô địch của dân:
Lật thuyền mới biết dân như nước,
Cậy hiểm khôn xoay mệnh ở trời.
(Quan hải - Đóng cửa biển)
Trong bài biểu về khánh đá (1437), Nguyễn Trãi ước ao “trong thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu”. Ông chủ trương phép nước “không lấy điều muốn của một người mà cưỡng ép muôn người không muốn phải theo” (Chiếu bàn về phép tiền tệ).
Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những tư tưởng triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị, những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Ví dụ:
Dưới công danh đeo khổ nhục,
Trong dại dột có phong lưu.
(Ngôn chí, bài 2)
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Tự thuật, bài 9)
Người tri âm ít, cầm nên lặng,
Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu.
(Tức sự, bài 10)
Nên thợ nên thầy vì có học,
No ăn no mặc bởi hay làm.
(Bảo kính cảnh giới, bài 46)
Áo mặc miễn là cho cật ấm,
Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.
(Dạy con trai)
Thơ Nguyễn Trãi tràn đầy tình yêu thiên nhiên. Hiếm có nhà thơ nào yêu quý, nâng niu cảnh vật thiên nhiên như ông:
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
(Mạn thuật, bài 6)
Đối với ông, thiên nhiên là bầu bạn, là gia đình ruột thịt:
Cây rợp tán che am mát,
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.
Rùa nằm hạc lẩn nên bầy bạn,
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
(Ngôn chí, bài 20)
Trong bài Cảnh ngày hè, nhà thơ say đắm với sức sống bừng bừng của cảnh vật. Một loạt từ láy, hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi tả (đùn đùn, giương, phun, tiễn, lao xao, dắng dỏi) đã thể hiện được những quan sát, cảm nhận hết sức tinh tế của tác giả. Bài thơ là cả một thế giới màu sắc và âm thanh sống động.
Thơ Nguyễn Trãi rất giàu tình cảm. Khi xuân qua hè đến, ông bâng khuâng nghĩ đến bàn tay người đẹp với một tấm lòng đồng cảm sâu xa:
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hòe hoa chen bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Cảnh hè)
Thơ văn Nguyễn Trãi chẳng những thấm nhuần tinh thần nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, thể hiện triết lí thế sự sâu sắc, mà còn chan chứa tình yêu thiên nhiên và con người.
2.3. Thơ văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc
Đúng như vua Lê Thánh Tông nói: “Lòng ức Trai tỏa rạng văn chương” (Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo). Nguyễn Trãi là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học dân tộc. Trước hết ông là nhà văn chính luận kiệt xuất. Nước ta đã có những áng văn chính luận nổi tiếng như Chiếu dời đô của Lí Công uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn rồi Nguyễn Trãi xuất hiện như một nhà văn chính luận sắc bén, giàu nhân nghĩa và đầy tính chiến đấu. Quân trung từ mệnh tập là tập văn chính luận phản ánh đầy đủ chiến lược “công tâm” của quân Lam Sơn. Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng, đanh thép. Cùng với các bài chiếu, biểu, lục… khác ông đã xây đắp nền móng văn hoá tư tưởng cho dân tộc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Bài Cửa biển Bạch Đằng là thơ trữ tình về chiến công lịch sử - một nỗi niềm thương cảm đối với các anh hùng xưa. Đóng cửa biển là bài thơ triết lí khẳng định bài học về sức mạnh của nhân dân. Bài Mộng trong núi (Mộng sơn trung) là một giấc mơ lãng mạn, siêu thoát:
Thanh Hư đầy động hàng ngàn trúc,
Phơi phới suối bay rủ kính trong.
Trăng sáng đêm qua trời tựa nước,
Chiêm bao cưỡi hạc tới tiên cung.
(Đào Duy Anh dịch từ bản chữ Hán)
Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người sáng tạo tiên phong, để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất. Đó là những bài thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng một ngôn ngữ tinh luyện, trong sáng, đăng đối một cách cổ điển. Ví dụ:
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.
(Bảo kính cảnh giới, bài 26)
Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc,
Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh.
(Tự thán, bài 29)
Nguyễn Trãi là nhà thơ sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm. Bên cạnh những mai, lan, cúc, tùng trang nhã, ông cũng là người đầu tiên đưa các hình ảnh thân thuộc như “lảnh mồng tơi”, “bè rau muống”, “vị núc nác”,... vào thơ. Nguyễn Trãi đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với thơ Đường luật. Trong Quốc âm thi tập gồm 254 bài có tới 186 bài viết theo lối đó. Thể thơ này từ thế kỉ XVII trở đi ít được dùng nhưng nó đã thể hiện tinh thần phá cách sáng tạo mạnh mẽ của nhà thơ.
Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa lỗi lạc và cũng là người có số phận bi thương nhất trong lịch sử. Ông chẳng những góp phần viết nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Thơ văn ông thể hiện một lí tưởng cao cả: “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược - Có nhân, có trí, có anh hùng” (Bảo kính cảnh giới, bài 5). Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu tiếng Việt nồng thắm, ông là người đầu tiên khơi dòng thơ Nôm trong suốt giữa cánh rừng văn chương chữ Hán dày đặc đương thời.
Năm 1980, Nguyễn Trãi đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và tổ chức kỉ niệm 600 năm năm sinh của ông.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Câu 1. Đáp án nào sau đây nêu ĐÚNG hiệu của Nguyễn Trãi?
A. Thanh Hiên
B. Ức Trai
C. Quế Sơn
D. Hy Văn
Câu 2. Ý nào sau đây KHÔNG ĐÚNG khi nói về tiểu sử của Nguyễn Trãi?
A. Nguyễn Trãi quê gốc ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội nhưng lớn lên ở làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, Hải Dương
B. Thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh, đỗ thái học sinh dưới triều Trần
C. Thân mẫu là Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán
D. Ông sinh năm 1380, mất năm 1442
Câu 3. Ý nào dưới đây KHÔNG ĐÚNG khi nói về cuộc đời của Nguyễn Trãi?
A. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh và làm quan cùng cha dưới triều Hồ
B. Khoảng năm 1432, Nguyễn Trãi tìm vào Lam Sơn theo giúp Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách
C. Năm 1437, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn (Hải Dương).
D. Năm 1443, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần vu cho tội giết vua và phải chịu án “tru di tam tộc”.
Câu 4. Những sáng tác của Nguyễn Trãi thuộc những lĩnh vực nào?
A. Chính trị, lịch sử, địa lí, văn học
B. Quân sự, chính trị, lịch sử, địa lí, thiên văn học
C. Quân sự, chính trị, lịch sử, địa lí, văn học
D. Quân sự, chính trị, lịch sử, văn học
Câu 5. Tác phẩm nào dưới đây KHÔNG PHẢI là tác phẩm chữ Hán của Nguyễn Trãi?
A. Ức Trai thi tập
B. Quốc âm thi tập
C. Quân trung từ mệnh tập
D. Lam Sơn thực lục
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ 6 đến 10:
Cuộc sống ẩn dật của Nguyễn Trãi thật lặng lẽ; chúng ta có cảm giác rằng không có một cái gì có thể làm xáo động, hoạ chăng thỉnh thoảng có tiếng cá quẫy ở dưới ao, hay xa hơn là tiếng suối chảy, cao hơn là tiếng chim kêu... xen vào, nhưng rồi lại trở về im lặng mênh mông. Chính những âm thanh gợi nét động lại gợi cảm giác tĩnh lặng của không gian vô cùng. Có một điều mà ta biết chắc chắn rằng, tấm lòng Nguyễn Trãi không có cái vẻ yên tĩnh như vậy, nó vẫn đêm ngày cuồn cuộn, khắc khoải một ước muốn phò vua giúp nước trong chế độ “vua sáng tôi hiền ”. Chúng ta hãy tưởng tượng ra chốn nương thân của Nguyễn Trãi, ở đó sơ sài chỉ có:
Nương náu qua ngày chẳng lọ nhiều
Chân rừng chụm một gian lều.
(Tự thán - bài 35)
Vật chất giản dị có phần nghèo nàn. Nếu sống thiên về hưởng thụ thì quả là thậm khổ. Nhưng Nguyễn Trãi đã có thiên nhiên an ủi, nâng đỡ, tâm hồn ông trở nên sáng láng. Sổng xung quanh ông là những người bạn hữu rất đáng yêu:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh em.
(Bảo kính cảnh giới - bài 26).
Tình người của ông thấm đẫm vào cảnh vật. Tất cả thiên nhiên khi Nguyễn Trãi đến gần, cho dù gần bằng cảm giác cũng đều được ông truyền cho linh hồn, khiến cảnh vật sắng động hẳn lên, chan chứa tình người. Đối với thiên nhiên thì trăng luôn luôn là người bạn thân thiết nhất, gần gũi nhất, chả thế mà ông đã bộc lộ, dốc bầu tâm sự cùng với trăng, với những nỗi niềm sâu kín nhất. Đã có lần Nguyễn Trãi ví lòng bạn trăng với lòng mình trong sáng cao quý nhưng nào có ai hay:
Lòng bạn trăng vặc vặc cao
(Bảo kính cảnh giới - bài 40)
Cũng có lúc Nguyễn Trãi lo lắng cho ánh trăng bị vẩn đục dưới hồ, mà ta tưởng chừng có lẽ là vô lí, nhưng không, chỉ vì ông quá yêu bạn của mình mà thôi:
Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt.
Và ông còn sợ một tiếng cá quẫy trong ao sẽ làm tan đi vẻ đẹp ấy của trăng. Ông tránh cho trăng tất cả những gì có thể va chạm, đều làm mất vẻ đẹp huyền ảo, nên thơ của trăng:
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá
(Mạn thuật - bài 6)
Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo
(Mạn thuật - bài 10)
Bởi vì ông cũng như trăng đã bị cá quẫy, bị buông câu làm cho tan nát cõi lòng tĩnh lặng, nên ông bảo vệ ánh trăng nhân nghĩa tròn đầy.
(La Kim Liên, “Trăng” trong thơ Nguyễn Trãi, in trong Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2003, tr. 561-563)
Câu 6. Đoạn trích trên đề cập đến đặc điểm nào về nội dung trong các sáng tác của Nguyễn Trãi?
A. Thơ văn Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân
B. Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện những tư tưởng triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị, những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời
C. Thơ văn Nguyễn Trãi tràn đầy tình yêu thiên nhiên, xem thiên nhiên là tri kỉ, lấy thiên nhiên làm bầu bạn
D. Thơ văn Nguyễn Trãi là sự quyện hòa giữa chất trữ tình sâu sắc và chất chính luận kiệt xuất
Câu 7. Đối tượng chính được tác giả nhắc đến trong đoạn trích trên là gì?
A. Chốn nương thân của Nguyễn Trãi
B. Âm thanh cuộc sống trong thơ Nguyễn Trãi
C. Không gian trong thơ Nguyễn Trãi
D. Trăng trong thơ Nguyễn Trãi
Câu 8. Con người cá nhân của Nguyễn Trãi được thể hiện như thế nào thông qua đoạn trích trên?
A. Là người yêu quý, nâng niu cảnh vật thiên nhiên
B. Là người gắng giữ gìn vẻ đẹp nguyên sơ, không làm tổn thương đến cảnh vật
C. Là người gắn bó tha thiết với cảnh sắc thiên nhiên
D. Là người say đắm với vẻ đẹp thiên nhiên, xem thiên nhiên là gia đình ruột thịt
Câu 9. Từ nội dung đoạn trích, có thể thấy cảnh vật thiên nhiên xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi mang đặc điểm gì?
A. Đài các, trang trọng, kiểu cách
B. Gần gũi, giản dị, mộc mạc
C. Sống động, đa dạng, bừng bừng sức sống
D. Hoành tráng, kì vĩ, thanh tao
Câu 10. Câu thơ nào trong số các câu thơ sau đây có cách diễn đạt gần nhất với nội dung của câu văn sau: “Có một điều mà ta biết chắc chắn rằng, tấm lòng Nguyễn Trãi không có cái vẻ yên tĩnh như vậy, nó vẫn đêm ngày cuồn cuộn, khắc khoải một ước muốn phò vua giúp nước trong chế độ “vua sáng tôi hiền ”
A. Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(Bảo kính cảnh giới, bài 43, Nguyễn Trãi)
B. Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
(Thuật hứng, bài 5, Nguyễn Trãi)
C. Bui có một lòng trung liễn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
(Thuật hứng, bài 24, Nguyễn Trãi)
D. Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày,
Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay.
Hổ phách phục linh nhìn mới biết,
Dành còn để trợ dân này.
(Tùng, bài 3, Nguyễn Trãi)
ĐÁP ÁN
| 1 | B | 6 | C |
| 2 | A | 7 | D |
| 3 | D | 8 | A |
| 4 | C | 9 | B |
| 5 | B | 10 | C |