Dec 13, 2024
20 mins read
687views
20 mins read

Chuyên đề 13: KÍ VÀ TRUYỆN KÍ (Phần lý thuyết)

1. ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA KÍ

- Từ điển văn học định nghĩa: “Kí là tên gọi chung cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại), chủ yếu là văn xuôi tự sự, gồm các thể loại: bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí… (Đỗ Đức Hiểu, Từ điển văn học, NXB Thế giới, tr.787).

- Định nghĩa trên đã khái quát được hai đặc điểm cơ bản của kí:

+ Thứ nhất, kí là loại hình ghi chép nằm ở giáp ranh của văn học và ngoài văn học.

+ Thứ hai, dạng thức ghi chép của kí là văn xuôi và phương thức biểu đạt chủ yếu của kí là tự sự. Mặt khác, giới nghiên cứu văn học phân biệt giữa kí văn học và kí báo chí; mục đích của sự phân biệt này là định ra đối tượng của nghiên cứu văn học là kí văn học - một thể loại của văn học, đặt song song với thơ trữ tình, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản văn học và các thể loại văn học khác.

* Đặc trưng của kí văn học:

Kí là sự can thiệp trực tiếp của nghệ thuật vào đời sống. Vì vậy đặc trưng thứ nhất của kí văn học là tính xác thực, là ghi chép sự thật, người thật, việc thật. Kí văn học là nơi gặp gỡ của sự thật đời sống và nghệ thuật.

- Kí có sự “kết hợp linh hoạt các phương thức tự sự, trữ tình, chính luận với các thao tác tư duy khoa học” (Trần Đình Sử). Trong một tác phẩm kí, có những ghi chép, tường thuật về cảnh, vật, việc và con người với vai trò nhân vật, “thổi sức sống” cho tác phẩm (phương thức tự sự); tác phẩm kí thể hiện một cảm quan nghệ thuật về hiện thực của tác giả, bày tỏ những suy nghiệm chủ quan của tác giả về đối tượng ghi chép, thể hiện một nhận thức về giá trị nhân sinh (phương thức trữ tình và chính luận); bên cạnh đó, tác phẩm kí còn chứa đựng những thông tin, tri thức ở nhiều lĩnh vực (văn hoá, xã hội, lịch sử, địa lí,...) xoay quanh đối tượng ghi chép (tính khoa học).

- Ở tác phẩm kí văn học, hình tượng tác giả (dấu ấn của cái tôi tác giả trong tác phẩm) có vai trò quan trọng và nổi bật. Tác giả “hoá thân” thành một nhân vật trong tác phẩm, giữ vai trò tự thuật, trò chuyện với các nhân vật khác, trình bày các sự kiện bằng việc sử dụng cảm quan nghệ thuật để quan sát, liên tưởng và tưởng tượng, bộc lộ những ấn tượng, ý kiến, tình cảm của mình, dẫn người đọc tiếp cận đối tượng ghi chép theo một hướng nào đó, tạo ra sự thống nhất các phần trong bài kí.

- Kí là thể loại văn học bao gồm nhiều tiểu thể loại. Theo cách phân loại truyền thống, có thể chia kí văn học thành hai nhóm dựa vào phương thức biểu đạt chính trong tác phẩm. Nhóm thứ nhất bao gồm các thể kí thiên về tự sự, yếu tố tự sự, tự thuật trong tác phẩm là yếu tố nổi bật - đó là phóng sự, kí sự, nhật kí, hồi kí, du kí. Nhóm thứ hai bao gồm các thể kí thiên về trữ tình, chuỗi sự kiện bị chi phối bởi mạch cảm xúc trữ tình của tác giả - đó là bút kí, tuỳ bút, tản văn.

2. ĐẶC TRƯNG MỘT SỐ THỂ LOẠI KÍ

2.1. Tuỳ bút

Tuỳ bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ thể loại kí, gần với bút kí, nhưng cách viết tự do và tùy hứng nhiều hơn. Nhà văn dựa vào sự lôi cuốn của cảm hứng, có thể nói từ sự việc này sang sự việc khác, từ liên tưởng này sang liên tưởng kia... để bộc lộ những cảm xúc, những tâm tình, phát biểu những suy nghĩ, những nhận xét về con người và cuộc đời. Những sự việc, những con người trong tùy bút tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái logic bên trong của cảm hứng tác giả” (Theo Đỗ Đức Hiểu, Từ điển văn học, NXB Thế giới, tr.787).

- Như vậy bản chất của tùy bút chính là vai trò chủ đạo của cảm hứng, cảm xúc trữ tình của tác giả, nó chi phối kết cấu của tác phẩm. Qua việc ghi chép cái thật, tác giả chú trọng bộc lộ cảm xúc, suy tư, đánh giá về cái thật ấy. Giá trị đầu tiên của tuỳ bút là giá trị biểu cảm.

- Xuất phát từ bản chất trên, tuỳ bút có những đặc trưng cơ bản sau:

+ Tuỳ bút dung hợp những kiến giải, những suy nghĩ, chiêm nghiệm của tác giả có những hiểu biết sâu rộng, có hứng thú, có ý tưởng sâu sắc, có cảm tình đẹp đẽ.

+ Tuỳ bút có tính phóng túng vì kết cấu theo mạch cảm xúc của tác giả, có thể chuyển từ sự việc, liên tưởng này sang sự việc, liên tưởng kia mà vẫn không làm gián đoạn mạch cảm xúc.

- Trong tùy bút, cảm hứng, cảm xúc về các sự việc, sự vật, hiện tượng về tự nhiên và xã hội, về con người và cuộc đời... của người viết thường được bộc lộ một cách rõ ràng, trực tiếp; ngôn ngữ trong tùy bút thường rất giàu chất trữ tình, giọng điệu tuỳ bút in đậm dấu ấn của cái tôi tác giả, có khi hòa nhịp với âm hưởng chung của thời đại.

Bên cạnh đó, tuỳ bút còn mang tính chất của các thể loại khác, ví dụ tính tự thuật của nhật kí, tính trần thuật của truyện ngắn.

2.2. Bút kí

- Bút kí là “một thể loại thuộc nhóm thể tài kí nhằm ghi lại sự việc, con người, cảnh vật... mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường là trong một chuyến đi, một lần tìm hiểu nào đó [...] không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực, có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng, nhưng ít phóng túng triền miên, mà tập trung thể hiện một tư tưởng chủ đạo nhất định” (theo Đỗ Đức Hiểu, Từ điển văn học, NXB Thế giới, tr.172). Mục đích đầu tiên của tác phẩm bút kí là thể hiện một giá trị nhận thức về đối tượng được ghi chép.

- Bút kí bao gồm bút kí báo chí (chủ yếu là bút kí chính luận - có tính thời sự, ghi nhận những vấn đề cấp thiết) và bút kí văn học. Không đặt nặng lượng thông tin, tính xác thực tuyệt đối và tính kịp thời như bút kí báo chí, bút kí văn học chú ý đến giá trị thẩm mỹ, nhân văn của đối tượng phản ánh song vẫn cung cấp những sự thật, tri thức, hiểu biết của tác giả về đối tượng ấy. Điểm đặc sắc của bút kí là sự hiện hiện của cái tôi suy tư của tác giả, đóng vai trò bộc lộ những cảm nghĩ. Những tiểu loại kí khác như phóng sự, kí sự nghiêng về tính khách quan của sự thể hiện thì bút kí nghiêng về tính chủ quan - những bình luận, suy tưởng của tác giả.

- Nhằm ghi lại những sự việc, cảnh vật mà nhà văn đã mắt thấy, tai nghe cũng như cảm xúc, suy nghĩ của họ qua một chuyến đi. Ở đây, những sự việc luôn xen kẽ với những yếu tố liên tường, tưởng tượng, cảm xúc. Vì vậy, bút kí luôn mang đậm sắc thái trữ tình.

2.3. Phóng sự

- Phóng sự là một thể loại kí nằm giữa văn học và báo chí. Phóng sự có nhiệm vụ thông tin thời sự về những tính chất người thật, việc thật đồng thời đưa ra và trả lời những câu hỏi, tạo dựng sự việc cho mọi người quan sát, học hỏi.

- Là một loại kí đặc biệt chú trọng đến sự việc, phóng sự nhằm phản ánh một sự kiện, hiện tượng xã hội một cách kịp thời và thường mang tính chất điều tra, phỏng vấn, một vấn đề có ý nghĩa thời sự. Do đó, phóng sự nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tả, tái hiện sự thật, nhưng nội dung tự sự thường không dựa vào một cốt truyện hoàn chỉnh.

- Người viết phóng sự phải đáp ứng một đòi hỏi nào đó về thời sự trực tiếp của người đọc. Ở đây tác giả thường ít bộc lộ cảm xúc, suy tư nhưng lại mang tính khuynh hướng rõ rệt khi đề cập đến các vấn đề thời sự.

2.4. Tản văn

- Tản văn là một tiểu loại của thể kí. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá (...) Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính của tác giả”. (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB. Giáo dục, 2009).

Tản văn có một số đặc trưng cơ bản sau đây:

Tính tự sự: Một bài tản văn luôn được xây dựng trên một câu chuyện hay một vài hiện tượng có thực trong đời sống. Đây là “nguyên liệu” không thể thiếu cho bài tản văn. Câu chuyện hay hiện tượng thường đơn giản, phổ biến, phần nhiều ai cũng từng thấy nhưng lại không mấy ai để ý và càng ít khi “cắt nghĩa” nó. Nhà văn, ngoài biết cách kể làm cho câu chuyện, hiện tượng trở nên sinh động, hấp dẫn thì cái chính là phát hiện ra vấn đề đằng sau câu chuyện hoặc hiện tượng đó.

Tính luận đề (chính luận): Một bài tản văn bao giờ cũng xoay quanh một chủ đề thuộc về tư tưởng, chính trị hoặc về lẽ sống, triết lí nhân sinh, triết lí văn chương và nghệ thuật,... Tính luận đề của bài tản văn được “công khai hoá” qua giọng kể, qua những lời bình luận ngắn gọn nhưng sắc sảo hoặc có khi bằng một vài câu nhận xét ý nhị.

Tính đối thoại: Tính luận đề thường đi kèm tính đối thoại. Thông qua lời kể, lời tả, ta thấy hiện lên nhiều tiếng nói, nhiều giọng điệu, nhiều thái độ đối lập nhau. Trong tản văn, nhất là tản văn chính trị-xã hội, luôn có hai luồng ngược nhau: một mặt, người viết rất tin vào chủ quan của mình, nhưng mặt khác lại hoài nghi hoặc so sánh với ý kiến ngược lại.

Tính hàm súc. Tính hàm súc của tản văn thể hiện sự cô đúc trong ngôn từ, nói ít gợi nhiều, vì vậy tác giả dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhân hoá, so sánh, trùng điệp,...  Những bài tản văn hay do đó, giàu chất thơ.

Tính tổng hợp: Trong tản văn thường có sự hoà trộn của nhiều phương thức: miêu tả, tự sự, trữ tình, nghị luận, thuyết minh. Sự hòa trộn này mang tính tự do, không theo một ước lệ nào, như là sự đưa đẩy tự nhiên của ngòi bút: thấy cần tả thì tả, thấy cần kể thì kể, cần luận thì luận, cần biểu cảm thì biểu cảm,...

2.5. Kí sự

- Kí sự khá gần gũi với phóng sự vì nó chú trọng đến sự việc, ít yếu tố trữ tình. Kí sự ghi chép khá hoàn chỉnh một sự kiện, một phong trào, một giai đoạn..., gần với truyện ngắn, ít hư cấu.

- Kí sự là một thể thuộc loại kí nhằm ghi chép lại một câu chuyện, một sự kiện tương đối hoàn chỉnh. Kí sự viết về những sự việc, con người có thật mà tác giả trực tiếp chứng kiến; sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật... Kí sự có quy mô tương ứng với truyện ngắn hoặc truyện vừa. Kí sự có những đặc điểm chung với bút kí như: viết về người thật việc thật mà tác giả trực tiếp chứng kiến; cốt truyện khống chặt chẽ như trong truyện; sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật,... So với bút kí, tuỳ bút, phần bộc lộ cảm nghĩ của tác giả hoặc những yếu tố liên tưởng, nghị luận ở kí sự thường ít hơn. Tuy nhiên khi viết kí sự, cùng với những ghi chép khách quan, tác giả vẫn có thể bộc lộ cảm nghĩ, thái độ của chính mình. Tác phẩm kí sự cũng cấu tạo theo phương thức kết cấu thông thường của một tác phẩm nghệ thuật: mở đầu - phát triển sự kiện - kết thúc. Kí sự là bức tranh toàn cảnh trong đó sự việc và con người đan chéo, những gương mặt của nhân vật không thật rõ nét. Bởi thế, kí sự có quy mô tương ứng với truyện ngắn hoặc truyện vừa. Mặc dù cốt truyện không chặt chẽ như truyện, song trong các tiểu loại của kí thì kí sự gần với truyện hơn cả.

2.6. Nhật kí, hồi kí

Hồi kí:

- Hồi kí là thể loại ghi lại những sự việc thuộc quá khứ, qua sự hồi tưởng. Lời văn của hồi kí thường mang hơi hướng tâm sự, thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả. Tuy nhiên, sự việc trong hồi kí cũng cần chính xác, chân thực. Đọc hồi kí, ta có cảm giác đồng hành cùng tác giả về lại miền kí ức, qua đó nắm bắt được các sự việc trong quá khứ một cách sâu sắc hơn. Ví dụ: Hồi kí Đường mòn (Đặng Anh Đào), Hồi kí Tâm thành và Lộc đời (NSƯT Thành Lộc). 

- Ghi lại những sự việc đã xảy ra qua hồi tưởng. Đó có thể là câu chuyện mà người viết đã tham gia, chứng kiến hoặc được nghe thuật lại một cách tường tận và gắn liền với kỉ niệm của người viết hoặc kể.

- Hồi kí đòi hỏi phải tôn trọng tính chân thực của câu chuyện và có sự khái quát cao.

Nhật kí

Nhật kí là thể loại kí mang tính chất riêng tư, đời thường nhiều nhất. Nếu hầu hết các tác phẩm văn học là để giao lưu với người khác, thì nhật kí chủ yếu để giao lưu với chính mình. Trong nhật kí, người viết ghi chép lại những sự việc đã, đang và sẽ diễn ra theo đúng trình tự thời gian, đồng thời sẵn sàng bộc lộ cảm xúc cá nhân và thêm vào những yếu tố chủ quan nhất định. Đọc nhật kí tuy cũng giúp ta phần nào hiểu hơn về cuộc sống nhưng trên hết là thấy được hình ảnh của tác giả một cách rất con người, từ đó rút ra chiêm nghiệm cho bản thân.Ví dụ: Nhật kí Anna Frank; Nhật kí Đặng Thùy Trâm