THIỆN LÀ GÌ? 善

1. Nghĩa của chữ “thiện”.
1.1. Nguyên nghĩa của thiện. Thiện có 15 chữ Hán: 善 (譱), 擅, 鱓, 鳝, 禪, 禅, 鄯, 膳, 饍, 墠, 嬗, 缮 (繕), 墡, 蟮, 蟺, trường hợp này là chữ 善 (phồn thể: 譱). Chữ thiện thuộc loại chữ hội ý, kết hợp bởi bộ 羊 dương và chữ 言 ngôn. Dương (羊) tượng trưng cho tường (祥) tức là điềm lành (cát tường); ngôn (言) là lời nói. Các cách viết của chữ này như sau:
1.2. Nghĩa của chữ thiện: (dt.)
(1) Việc tốt: Nhật hành nhất thiện (mỗi ngày làm một việc tốt).
(2) Người tốt, người có đạo đức: Gia thiện nhi căng bất năng (phải khen người tốt mà cũng nên thông cảm với người không có khả năng).
(3) Họ Thiện. (đt.)
(4) Quý trọng: Thiện nhật giả vương, thiện thì giả bá (người biết quý ngày là bậc vương, biết quý giờ là bậc bá) (Tuân Tử, Cường quốc).
(5) Kết bạn: Giao thiện (kết bạn).
(6) Sửa cho tốt: Dục thiện kỳ sự (lo làm cho hay)
(7) Yêu thích: Vương như thiện chi, tắc hà vi bất hành? (nếu vua thích cái đó thì sao không làm?) (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương hạ).
(8) Thân thiết, giao hảo: Thân nhân thiện lân (thân cận với láng giềng, giao hảo với lân bang). (tt.)
(9) Quen biết: Diện thiện (Có nét mặt quen quen).
(10) Tốt: Thiện nhân (người tốt).
(11) Đáng chấp nhận: Thiện sách (kế hay). (pht.)
(12) Khéo: Thiện thư (viết khéo).
(13) Dễ: Thiện vong (dễ quên).
(14) Thân thương: Thiện đãi (đối xử cách thân thương). (thán từ) (14) Khen ngợi: Thiện tai!
Theo nghĩa triết học, thiện là “điều tốt về phạm vi đạo đức. Là lý tưởng thoả mãn ý chí con người, cũng như chân thoả mãn lý trí và mỹ thỏa mãn tình cảm” [3].
2. Các quan niệm về thiện.
Trong môn tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, Thiện được nhắc đến trong Chân Thiện Nhẫn, luôn nghĩ cho người khác trước tiên, vị tha bao dung. Đó mới là tầng nghĩa bề mặt, người tu luyện ở tầng thứ khác nhau lại có những thể ngộ khác nhau. Nếu có duyên mời các bạn đón đọc Thiên Thư Chuyển Pháp Luân để tự mình có những liễu giải về chữ Thiện.
https://vi.falundafa.org/

2.1. Trong Nho học: Mạnh Tử cho rằng: “Ai cũng có lòng thương người... Sở dĩ tôi bảo vậy là vì có chứng cứ. Nếu thình lình thấy một đứa nhỏ sắp ngã xuống giếng, ai cũng có lòng bồn chồn thương xót”[4]. Đó là minh chứng cho một trong tứ đoan (bốn mối, hay có thể gọi nôm na là mầm thiện) của tính thiện mà nếu ai không có, thì không phải là người, bao gồm: lòng trắc ẩn (thương xót), lòng tu ố (thẹn, ghét), lòng từ nhượng (kính nhường), lòng thị phi (biết phải trái). Ông nói: “Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí”. Cho nên con người cần phát huy bốn mối đó bằng cách nuôi dưỡng tâm tính (tồn tâm, dưỡng tính), giảm bớt lòng ham muốn (quả dục) và làm điều nhân nghĩa.
Người ta thường quan niệm tính là tất cả các nết tốt, nết xấu tự nhiên ở trong tâm thần của một vật nào, tức là toàn thể sinh hoạt của vật ấy. Khổng Giáo không hiểu như thế, cho tính là cái bản nguyên tinh thần, tức phần thiên lý của Trời phú cho, có đủ cả nhân, nghĩa, lễ, trí, tín tức là cái minh đức nói ở đầu sách Đại Học. Do đó, Mạnh Tử cho tính người ta là thiện, nếu có thành ra bất thiện là vì người ta không biết giữ cái bản tâm, chứ nguồn gốc của tính không thể không thiện được. Mạnh Tử sở dĩ nói tính thiện là vì ông tin có cái thiên lý chí thiện, mà tính người là một phần thiên lý ấy, cho nên phải thiện.
Mạnh Tử thường dùng “hiếu, đễ, trung, tín” để nói lên nội dung cụ thể của thiện. Hiếu là thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa con với cha mẹ; Đễ là thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với anh chị em; Trung là thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với tổ quốc hay người chủ; Tín là thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với bạn bè. Nên thiện là thể hiện cụ thể mối quan hệ thích đáng giữa tôi với tha nhân.
2.2. Trong Phật Giáo: Thiện (Pali: kusala): là lành, tốt, có đạo đức; thuận theo đạo lý, có ích cho mình và cho người; là trạng thái tiêu diệt ác pháp. Ngược với thiện là ác, bất thiện (akusala) chính là ác pháp. Quả báu của thiện là sự an lạc thân tâm. Phúc (puñña): là hạnh phúc, sung sướng, là trạng thái làm cho tâm của mình được trong sạch khỏi phiền não. Ngược với phúc là tội (pāpa) là trạng thái làm cho tâm bị ô nhiễm bởi phiền não. Quả báu của phúc cũng là sự an lạc thân tâm. Cho nên, phúc và thiện đồng nghĩa với nhau. Phúc thường thấy trong Kinh Tạng, có nghĩa hẹp; Thiện thường thấy trong Vi Diệu Pháp Tạng, có nghĩa rộng.
Trong ba cõi (tam giới), con người nói riêng và tất cả chúng sinh nói chung, thân tâm được an lạc, đó là quả của phúc thiện. Các hành vi thiện đều do nơi thân thể, lời nói và nhất là tâm ý mà ra, gồm chung gọi là thập thiện nghiệp (10 hành vi lành): Về thân có ba: (1) không sát sanh, (2) không trộm cắp, (3) không dâm dục. Về ngữ có bốn: (4) không nói dối, (5) không nói hai lưỡi, (6) không nói ác khẩu, (7) không nói thêu dệt. Về ý có ba: (8) không tham lam, (9) không sân hận, (10) không ngu si tà kiến.
Tất cả phúc báu của loài người và trời (tức các chúng sanh ở về thế giới tốt đẹp hơn loài người) thành tựu được, đều do tu theo mười điều lành này. Nếu muốn sanh về cõi trời thì cần phải có hành vi đạo đức của thập thiện. Trời lại có ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Muốn sinh vào hai cõi sắc và vô sắc, lại cần tu theo tứ thiền bát định [6] nữa mới được. Nhưng cũng căn cứ mười nghiệp lành này làm cơ bản; chỉ thêm một tầng nữa là cần phải có công phu tu các pháp thiền định nữa mà thôi. Vì thế, giáo pháp đại thừa cũng đều thâu tóm vào trong mười điều lành này và sự nghiệp xuất thế của các bậc thánh nhân hầu hết bao quát trong thập thiện nghiệp. Vai trò thực sự của thập thiện nghiệp có tính quyết định là như thế. [7]
2.3. Trong triết học Hy Lạp: Thiện [8] là mục đích dành cho mọi người để sống thành công, là nguồn suối của hạnh phúc, là cuộc tìm kiếm không ngừng của linh hồn. Nhưng chỉ có bậc hiền nhân mới đạt đến sự thiện, vì chỉ có vị ấy mới sử dụng lý tính một cách thích hợp.
Những nhà tư tưởng đầu tiên đều bận tâm về bản tính và nguồn gốc của thế giới nên suy tư về sự thiện diễn ra tương đối muộn, tuy nhiên chủ đề này lại được bàn luận rất phong phú vì các triết gia không nhất trí về bản tính của nó. Chính Pythagore là người đặt sự thiện ở vị trí cao nhất trong hệ thống thứ bậc các hữu thể, bằng cách đồng nhất nó với Thượng Đế, với tinh thần và với đơn tử sản sinh ra các hữu thể. Ông quan niệm sự thiện không những như là giá trị luân lý, mà còn như là cái đẹp, chân lý và hạnh phúc; chính xác hơn, nó vượt lên trên các giá trị thứ sinh này và mang lại giá trị cho chúng: nó là giá trị tuyệt đối và căn nguyên.
Ở Aristote, ‘thiện’ được đồng nhất với Đệ nhất động cơ [9], với Hữu thể tất yếu, với Nguyên tắc, với Tư duy tự trị, với Tác vụ tự tồn bền vững là Thượng Đế [10]. Với con người, đối tượng đầu tiên của ý chí hợp lý tính chính là sự thiện. Đến mức là tất cả mọi nghệ thuật và mọi khoa học đều được hướng đến sự thiện [11]; và ‘Sự thiện Tối cao’ (aristhon) là mục đích cuối cùng, của cá nhân cũng như của nhà nước [12]. Vì vậy, trên nhiều phương diện, “thiện gồm nhiều phạm trù không kém gì hữu thể: với tư cách là bản thể, sự thiện tối cao được gọi là Thượng Đế và tinh thần; với tư cách chất, nó là các đức hạnh; với tư cách lượng, nó là hạn độ đúng mực, v.v [13]. Nó cũng là mục đích duy nhất và hoàn hảo, vốn được sở hữu, tạo nên hạnh phúc; cái khiến cho ta phải tìm kiếm nó cho chính mình chứ không phải cho ai khác [14]. Và bằng một sự đảo ngược các thuật ngữ, Aristote kết luận rằng sự thiện tối cao đó chính là hạnh phúc (eudaïmonia); và ông nói rõ: “sự thiện của riêng con người là sự hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh” [15]. Cuối cùng, sự thiện - hạnh phúc này chính là “sống đúng với phần hoàn hảo nhất của chính chúng ta" [16], phần ấy là nguyên tắc thần thánh của lý tính chiêm ngắm (épistêmonikon). Trong Chính trị học [17], Aristote gọi sự thiện tối cao (của cộng đồng) là to kuriotaton, kurios (thường dịch âm là kyrios): sự làm chủ, chủ quyền (trong Sách lễ Roma dịch là Thiên Chúa).
2.4. Quan niệm của Công Giáo:
Có thể tóm tắt những nét chính yếu trong Tổng luận Thần học [18] của thánh Tôma liên quan đến sự thiện như sau:
1. Thiên Chúa là tình yêu, là nguồn sự thiện sung mãn vô biên: Ngài tạo dựng nên vạn vật bởi vì muốn thông chuyển sự thiện cho các thụ tạo, cách riêng là loài người. Nơi Thiên Chúa, sự thiện hay tình yêu không phải là cái gì trừu tượng nhưng là chính bản tính của Ngài.
2. Con người luôn khao khát hiểu biết sự thật và ước muốn đạt đến sự thiện tuyệt đối, tức là hạnh phúc vĩnh cửu. Thế nhưng con người không thể tìm đâu được hạnh phúc ngoài Thiên Chúa: tâm hồn con người luôn luôn khắc khoải bao lâu chưa đạt tới Thiên Chúa.
3. Đối lại Thiên Chúa không để cho con người bơ vơ: chính Thiên Chúa đã lôi kéo chúng về với Chúa bằng ân sủng, bằng các ơn Thánh thần, bằng gương mẫu là chính Chúa Giêsu Kitô, hình ảnh Thiên Chúa.
4. Phương thế để đạt tới sự thiện đích thực hoàn hảo (cũng gọi là con đường nên thánh, đường trọn lành, là con đường trở về với Thiên Chúa là cội nguồn và cứu cánh của mình) hệ tại trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Sự thánh thiện không có nghĩa là thoát tục, nhưng là dấn thân xây dựng xã hội. Người thánh thiện không phải là người sống trên mây trên gió, nhưng là người tìm cách nhận ra tiếng gọi của Chúa giữa hoàn cảnh xô bồ của lịch sử. Con đường nên thánh bao gồm nhiều hành vi tốt lành (khổ chế, nhân đức), nhưng quan trọng hơn cả là lòng khát khao và tình yêu mến. Con người tiến triển trên đường nhân đức không phải bằng việc tích luỹ cho thật nhiều việc thiện, nhưng là nhờ việc tăng cường lòng yêu mến.
MỘT SỐ GÓC NHÌN KHÁC VỀ CHỮ THIỆN
Theo tiếng Hán, chữ Thiện được tạo ra bởi việc ghép hai bộ vị chữ Dương bên trên, chữ Thảo bên dưới và bộ Khẩu ý nói ám chỉ chú dê đang ăn cỏ là một hình ảnh vô cùng nhẹ nhàng, không có sát khí, bình tĩnh, tươi đẹp, không làm hại cho ai cũng như không có gì gây ra sự nguy hiểm đến chủ thể.
Thiện ở đây được hiểu như một đặc trưng trong tính cách của con người.
Từ xa xưa, người ta luôn cho rằng trong mỗi một tâm hồn con người luôn tồn tại song song hai bản chất thiện và ác.
Cái Thiện thì luôn tìm cách chế ngự cái ác, không để cái ác trỗi dậy, trong khi đó cái ác thì luôn tìm cách để mạnh lên, tìm tới những cái xấu mà sẵn sàng làm hại người khác để đạt được mục đích của bản thân.
Bên cạnh đó còn có cách chiết tự khác nữa: Chiết tự chữ 善 - THIỆN - shàn
Ông vua (王) mà mọc hai sừng (八),
Hai mươi (艹) cái miệng (口) xin đừng quên tôi.

Luật nhân quả đáng kinh ngạc: Người thiện lương sẽ không bao giờ đau khổ
William Wordsworth đã từng nói: “Phần đẹp nhất trong đời một người tốt là những hành động tử tế và yêu thương nhỏ bé, vô danh, không được nhớ đến”.
Sẽ có người luôn nói với bạn rằng: Người quá tốt bụng dễ bị bắt nạt và thường đau khổ. Thực ra, cuộc đời là một quá trình lâu dài, làm người thiện lương có thể bị đối xử tệ bạc một thời gian, nhưng đó chỉ là trải nghiệm ngắn ngủi trong cuộc đời, bởi thiện lương là một vòng tuần hoàn vĩnh cửu, những gì bạn cho đi sẽ quay trở lại với bạn theo một cách bất ngờ nhất.
Trong “Kinh dịch” nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”.
Mọi chuyện xảy ra đều không phải ngẫu nhiên, cái gì cũng có cái lý của nó. Một gia đình nếu luôn làm việc thiện thì gia đình ắt sẽ ngày càng cát tường, thịnh vượng; nếu một gia đình hay làm chuyện xấu, không nghiêm túc quản giáo, cứ để buông thả, gia đình sớm muộn gì cũng gặp tai ương.
Sự thiện lương của bạn có thể chưa được người khác biết đến, nhưng ông Trời đã nhìn thấy và sẽ mang đến những điều bất ngờ và may mắn cho bạn trong tương lai. Vậy nên người thiện lương sẽ không hề đau khổ chút nào.
1. Thiện lương là sự đồng cảm sâu sắc
Trong một khách sạn, người quản lý vô tình mở cửa phòng thì phát hiện những người phục vụ đang tụ tập xung quanh, ăn đồ ăn thừa từ bàn trước để lại. Ngay lập tức bầu không khí trở nên rất khó xử. Các nhân viên lập tức ngơ ngác, lập tức đặt đũa xuống và xấu hổ nhìn nhau.
Không ngờ lúc này người quản lý cầm đũa lên nói: “Các bạn ăn gì vậy? Sao không gọi tôi ăn cùng”, sau đó anh ấy và mọi người bắt đầu ăn cùng nhau.
Bầu không khí căng thẳng trong phòng lập tức trở nên thoải mái, mọi người lại bắt đầu nói cười vui vẻ.
Sau đó, có lần người quản lý gặp phải một khách hàng khó tính và một nhân viên đã cố gắng hết sức để giúp đỡ anh ấy. Người quản lý rất bối rối, không hiểu tại sao lại giúp anh nhiệt tình đến như vậy?
Người nhân viên đã nói cho anh biết lý do, các nhân viên đều vô cùng biết ơn anh vì cách xử lý tình huống trong căn phòng ngày hôm đó.
Khi một người có thể đặt mình vào vị trí của người khác, quan tâm đến phẩm giá của người khác và không làm người khác xấu hổ, đó chính là một kiểu tôn trọng và thiện lương đối với mọi người.
Tấm lòng thiện lương này sẽ được tích lũy qua thời gian, và cuối cùng sẽ trở thành ánh sáng chiếu rọi vào chính cuộc đời bạn.
Cách đây vài ngày, Lí Mộng, thí sinh trong “Tôi là diễn viên”, đã trở thành tâm điểm chú ý. Sau màn trình diễn, khi nói về quá khứ, đạo diễn Trương Kỷ Trung đề cập rằng cách đây đã lâu, Lí Mộng đã bị thay thế trong đoàn làm phim “White Deer Plain”.
Lí Mộng đã nói rõ chuyện đó không còn quan trọng nữa và không muốn nhắc đến nữa, nhưng Lí Thành Nho có mặt tại hiện trường nhất quyết yêu cầu cô tìm ra lý do của riêng mình. Trong sự xấu hổ, Lí Mộng nói rằng do tính cách của cô ấy có sai sót.
Khi đó Lí Mộng đang ở trên sân khấu và cảm thấy rất bối rối và bất lực, vì vậy nam diễn viên Trương Tụng Văn lúc này đã đứng dậy và nói vài lời.
Anh kể câu chuyện về quả táo trên trường quay “Góc khuất”, khẳng định tài năng diễn xuất của Lí Mộng. Trương Tụng Văn đã không tiếc công sức đứng lên giải cứu Lí Mộng, mọi người đều khen ngợi hành động nhẹ nhàng của anh, thậm chí việc này còn trở thành chủ đề nóng.
Có người từng hỏi: “Tại sao người thiện lương luôn có thể đồng cảm với niềm vui nỗi buồn của người khác?”
Bởi vì những người thiện lương luôn có thể đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Sự dịu dàng, tử tế ấy cuối cùng sẽ quay trở lại với họ theo một cách tuyệt vời nhất.
2. Thiện lương là sự dịu dàng giúp đỡ người khác và chính mình
Tôi đã nghe một câu chuyện có thật: Một người phụ nữ làm việc trong một nhà máy chế biến thịt, một ngày nọ, khi cô đã hoàn thành xong công việc và bước vào kho lạnh để kiểm tra định kỳ thì một điều đáng tiếc đã xảy ra.
Cánh cửa bất ngờ đóng lại, cô bị nhốt bên trong, không ai để ý đến sự biến mất của cô, mặc dù bên trong cô đập cửa và la hét nhưng cũng không ai nghe thấy tiếng khóc của cô.
Đó là thời gian tan ca, hầu hết mọi người đã tan sở về nhà và nhà máy nhanh chóng trở nên trống rỗng. Trong kho lạnh, không ai biết được những điều khủng khiếp đang diễn ra bên trong.
Năm giờ sau, khi cô sắp chết, cánh cửa kho lạnh đã được nhân viên bảo vệ mở ra, cứu cô một cách thần kỳ.
Sau đó cô hỏi bảo vệ tại sao lại mở cửa kho lạnh, đây không phải việc của anh.
Người bảo vệ đã trả lời rằng: “Tôi đã làm việc ở nhà máy này ba mươi lăm năm, mỗi ngày có hàng trăm người ra vào nhưng chỉ có cô là người chào tôi mỗi buổi sáng và tạm biệt tôi vào buổi tối. Sáng nay cô chỉ nói chào buổi sáng với tôi, nhưng sau khi tan sở lại không thấy cô chào tạm biệt, tôi đoán cô đã xảy ra chuyện gì đó. Tôi mong chờ những lời “xin chào” và “tạm biệt” của cô vì những lời chào của cô luôn nhắc nhở tôi: Tôi cũng là một người được kính trọng”.
Bạn không bao giờ biết thiện ý vô tình của bạn có thể có ý nghĩa như thế nào đối với người khác. Bạn sẽ không biết rằng chính lòng tốt của bạn ở hiện tại này sẽ cứu bạn vào những thời điểm quan trọng của cuộc đời.
Mọi may mắn trên thế giới này đều đến từ những phúc lành mà bạn đã tích lũy bấy lâu nay. Nếu bạn thiện lương, may mắn sẽ mỉm cười với bạn. Nếu tâm hồn bạn nhẹ nhàng, bạn sẽ tự nhiên cảm nhận được làn gió nhẹ ấm áp. Sẽ không có người thiện lương nào phải chịu đau khổ mãi mãi và sẽ có nhiều người yêu quý bạn hơn.
3. Sự thiện lương lặng lẽ sẽ mang đến phúc báo vô tận
Tôi từng xem một bộ phim từ thiện của Thái Lan: Ông lão là một người nhặt rác đã 82 tuổi, hàng ngày ông đẩy một chiếc xe đẩy cũ kỹ và lục lọi quanh trạm tái chế rác, đi đến đâu, ông cũng luôn bị xua đuổi.
Nhưng ông lại có một trái tim nhân hậu. Khi thấy một vị sư đi khất thực, ông sẽ cúng dường càng nhiều càng tốt; Thấy cô bé không có tiền mua kem, ông sẽ đưa cho cô bé một đồng xu.
Ông luôn bước đi khập khiễng, một chân của ông là chân giả và cần được thay thế vì nó đã bị mòn nặng. Ông đã nộp đơn vào các tổ chức xã hội để xin chân giả mới, nhưng đơn của ông luôn bị xếp xó giữa đống giấy tờ và ông chỉ được cấp một vài viên thuốc giảm đau.
Một ngày nọ, khi đang đi khập khiễng trên đường, ông bị một tên trộm đang lao tới tông ngã xuống đất, chiếc chân giả của ông cũng bị văng ra một quãng đường dài.
Chiếc túi rơi ra khỏi xe, ông lão đã ôm chặt chiếc túi không chịu buông ra dù tên trộm có đá vào người thế nào, nhìn thấy cảnh sát sắp đuổi theo phía sau nên tên trộm đành phải chạy đi.
Cảnh tượng này có sự chứng kiến của một cô bé. Khi bị người chủ đuổi kịp, anh ta nhầm tưởng ông lão là kẻ trộm nên đã gọi cảnh sát đến hiện trường và bắt giữ ông lão.
Khi ông già bị bắt, tin tức được phát trên TV, cô bé chứng kiến sự việc đã dùng số tiền còn lại mà ông già đưa cho cô để mua kem, gọi đến đồn cảnh sát, tự mình đưa ra lời khai giúp cho ông lão. Những người hiểu lầm ông lão đã đến tận mắt chứng kiến tình trạng của ông, tổ chức từ thiện tặng một chiếc chân giả cho ông.
Việc làm của ông lão được truyền miệng, khiến mọi người cảm động trước lòng tốt như vậy. Lúc này, mọi sự thờ ơ và phòng thủ giữa con người với nhau đều bị gạt bỏ, con người trở nên bao dung và thấu hiểu lẫn nhau.
Hành vi của ông lão dường như là một điểm sáng, sự thờ ơ ban đầu giữa con người với nhau đã bị loãng đi và họ bắt đầu trở nên tử tế với nhau. Bất kể địa vị thế nào, thiện lương bắt nguồn từ trái tim là mức độ tu dưỡng cao nhất của một người.
Nó giống như một hạt giống cắm rễ vào thế gian, dù ở đâu nó cũng có thể xua tan giá lạnh, xua tan sương mù, khiến con người trở nên hiền lành và trong sáng.
Thế gian có nhân quả, vạn vật đều có luân hồi. Sự thiện lương của bạn sẽ được đền đáp bằng những gì tốt đẹp nhất.
4. Thiện lương là trí thông minh cao nhất của đời người
Có một người đang điều hành công ty một cách rất suôn sẻ và có người đã hỏi anh ấy đã điều hành công ty như thế nào.
Thay vào đó, anh ấy lại hỏi rằng: “Lần cuối cùng anh làm điều gì đó tốt là khi nào?”
Đối phương do dự không trả lời được, nói rằng hàng năm đều quyên góp tiền cho miền núi. Đối phương không hiểu điều này có liên quan gì đến việc điều hành một công ty.
Anh ấy nói rằng: “Trong những năm qua, công ty của tôi hoạt động rất thuận lợi, từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, tôi cảm thấy tất cả những điều đó không thể tách rời khỏi từng niệm thiện, từng việc tốt mà tôi có. Tôi làm điều tốt không phải để nổi tiếng mà chỉ để bản thân cảm thấy thoải mái hơn”.
Trong “Lục Tổ Đàn Kinh” có câu nói: “Nhất thiết phúc điền ly bất khai tâm địa”, nghĩa là: Tất cả phước điền, không rời phương thốn. “Phương thốn” là chỉ tâm địa của chúng ta, lành dữ họa phúc đều do ý niệm biến hiện ra, không rời khỏi tâm.
Người xưa còn nói: “Người có lòng nhân ái thì phúc chưa đến mà tai họa đã rời xa”.
Thiện lương là một tiếng vang lớn, những thứ bạn trao đi cuối cùng sẽ quay trở lại với bạn. Muốn được yêu thương thì trước tiên bạn phải yêu thương người khác; Muốn được quan tâm thì trước tiên bạn phải quan tâm đến người khác; Muốn người khác thiện ý với mình thì trước tiên bạn phải thiện ý với người khác; Nếu muốn nhận được phúc lành, trước tiên bạn nên có một tấm lòng thiện lương.
Trí thông minh cao nhất trên thế giới này chính là thiện lương. Người thông minh hiểu rằng thiện lương là lợi ích cá nhân lớn nhất và có thể tích lũy cho một người những điều tốt đẹp bất ngờ.
Thùy Dung biên dịch
Nguồn: aboluowang (Triệu Li)
