30 thg 6, 2024
9 phút đọc
399lượt xem
9 phút đọc

TRĂNG TRONG THƠ LÝ BẠCH

Lý Bạch (701 – 762), tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, là một trong những nhà thơ lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung. Trên bầu trời thơ Đường, Lý Bạch chính là ngôi sao chói lọi nhất, tỏa ánh hào quang tận thiên thu. Thơ ông thấm đẫm phong cách trữ tình, lãng mạn, có phong thái siêu trần, thoát tục. Ông được hậu thế gọi là Thi tiên, Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên không chỉ vì phong cách lãng mạn phóng khoáng, trong cuộc đời Lý Bạch đã thực sự múa kiếm ngao du như một hiệp khách, thực hành tu tiên như một Đạo sĩ.

Tranh vẽ Lý Bạch múa kiếm dưới trăng

Thơ Lý Bạch viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng… Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác. Nhưng để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong thơ Lý Bạch là những bài viết về trăng. Trong cuộc đời làm thơ của Lý Bạch có hơn 300 tác phẩm viết về trăng. Trăng đã trở thành biểu tượng, thành tri âm tri kỉ, gắn với tên tuổi của Lý Bạch. Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này chỉ xin nói về hai bài thơ đầu tiên và cuối cùng có sự xuất hiện của hình ảnh trăng trong thơ ông.

Năm Khai Nguyên thứ 14 (726), Lý Bạch lúc này 25 tuổi, ngao du đến Dương Châu. Trong quán trọ, ông đã viết bài thơ “Tĩnh dạ tư” lưu danh thiên cổ. Bài thơ giản dị mà diễm lệ, mở ra vô số tầng nội hàm khiến người đời sau thổn thức.

静夜思 

床前明月光,
疑是地上霜.
举头望明月,
低头思故乡.

TĨNH DẠ TƯ

Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương

Dịch thơ:

Đầu giường ánh trăng rọi

Mặt đất như phủ sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương

(Nam Trân)

Bàn về bản dịch, chữ “sàng” từ lâu vốn được nhiều dịch giả hiểu là “giường”. Nhưng trong Hán ngữ, “sàng” còn mang một nghĩa khác: “cái sàn bắc trên giếng để đỡ con quay kéo nước”. Nếu đặt vào ngữ cảnh này, không gian bài thơ bỗng mở rộng, khoáng đạt, chan hòa ánh sáng. Trăng chiếu xuống miệng giếng khiến cảnh vật thêm lung linh, huyền ảo; và sự liên tưởng giữa vầng trăng sáng với sương phủ mặt đất cũng trở nên tự nhiên, hợp lý hơn. Thêm nữa, người Trung Hoa xưa không có tập tục đặt giường sát cửa sổ để đón trăng gió như ở phương Nam; phòng ngủ vốn kín đáo, khó lòng từ trên giường mà trực tiếp nhìn trăng. Vì vậy, cách hiểu “sàng” là “giường” tuy quen thuộc, song vẫn còn nhiều điều cần suy ngẫm.

Về tầng nghĩa bề mặt, “Tĩnh dạ tư” bộc lộ nỗi nhớ quê da diết của kẻ lữ thứ chốn tha hương. Lời thơ giản dị, mộc mạc, chẳng chút tô vẽ mà chạm đến tận cùng nỗi niềm trong lòng người đọc. Chính sự tự nhiên ấy đã làm nên vẻ đẹp “tuyệt diệu cổ kim” mà bao thế hệ sau vẫn truyền tụng.

Nhưng cố hương mà Lý Bạch nhớ đến là nơi nào? Phải chăng là Thanh Liên, Tứ Xuyên – chốn tuổi thơ ông từng ngắm trăng trên núi Nga Mi? Vầng trăng ở Dương Châu đêm ấy cũng là vầng trăng đang tỏa sáng nơi quê nhà Tứ Xuyên chăng? Như Đỗ Phủ trong “Nguyệt dạ” từng viết: người vợ ở Phu Châu ngắm trăng mà tưởng tượng đến người chồng ở Trường An cũng đang đối diện cùng ánh trăng ấy. Song Tứ Xuyên cách Dương Châu không xa, Lý Bạch có thể trở về bất cứ lúc nào, vậy cớ sao lại ngậm ngùi đến thế?

Tranh minh họa: Tĩnh dạ tư

Lại nữa, Lý Bạch tự xưng “Trích Tiên”, được hậu thế tôn là “Thi Tiên”. Với ông, vầng trăng và “cố hương” đâu chỉ là khung cảnh thực tại. Vì thế, ông mới viết: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương”. Có phải chăng, “cố hương” ở đây không chỉ là quê quán trần gian, mà còn là chốn linh nguyên thiêng liêng nơi tâm linh hướng về? Tựa như Tô Đông Pha sau này trong bài từ “Thủy điệu ca đầu” cũng nâng chén hỏi trăng:

Vầng trăng sáng có tự khi nào?
Nâng chén rượu lên hỏi trời cao.
Chẳng biết cung điện trên chốn ấy,
Đêm nay đã là đêm năm nào?

Nếu nhìn từ văn hóa tu luyện, cố hương đích thực của một “Thi Tiên” không phải ở nhân gian, mà ở chốn Tiên giới thanh khiết. Bởi vậy, khi ngẩng đầu, ông trông ngóng ánh trăng nơi cõi xa; khi cúi đầu, lòng ông dạt dào nỗi nhớ quê nhà tâm linh.

Ngàn năm qua, bao người ngâm tụng “Tĩnh dạ tư” mà xúc động khôn nguôi, dẫu chẳng hiểu vì sao. Có lẽ trong sâu thẳm mỗi tâm hồn, ai cũng mang nỗi khát khao được trở về nguồn cội – “cố hương” tinh thần của chính mình. Bài thơ khơi dậy nỗi niềm ấy, khiến người đọc tuy mơ hồ mà lại rung động sâu xa. Đó mới chính là lý do “Tĩnh dạ tư” vượt lên thời gian, được yêu mến và truyền tụng muôn đời.

Năm Thượng Nguyên thứ 3 (762), thi nhân khi đã 61 tuổi, lưu lại Đương Đồ - An Huy một thời gian ngắn, ông đã viết bài thơ vịnh trăng cuối cùng.

CỬU NHẬT LONG SƠN ẨM

Cửu nhật Long Sơn ẩm

Hoàng hoa tiếu trục thần

Túy khán phong lạc mão

Vũ ái nguyệt lưu nhân

Tạm dịch:

Trùng Cửu rượu Long Sơn

Hoa cười giễu tội thần

Say nhìn gió bay mũ

Mê múa trăng giữ chân

Ảnh chụp màn hình tiết mục biểu diễn của Đoàn nghệ thuật Shenyun

“Gió thổi rơi mũ” là một điển tích rất đẹp trong văn chương cổ. Thời Đông Tấn, đại tướng quân Hoàn Ôn vào tết Trùng Dương dẫn quan lại dưới trướng đến Long Sơn, leo núi, uống rượu, thưởng thức hoa cúc, ăn bánh cửu hoàng, viên tham quân Mạnh Gia cũng trong đó.

Trong bữa tiệc, một cơn gió núi thổi tới, làm rơi cả mũ trên đầu Mạnh Gia xuống mà ông ta hoàn toàn không biết, vẫn cứ phong độ trang nhã. Hoàn Ôn hứng thú lệnh cho Tôn Thịnh làm bài văn trêu Mạnh Gia. Ai ngờ Mạnh Gia không cần suy nghĩ, lập tức đối đáp, mở miệng thành văn, tất cả mọi người không ai không khâm phục tài năng mẫn tiệp, khí chất phi phàm của ông. Đời sau dùng “Lạc mạo Long Sơn” (Rơi mũ Long Sơn) để miêu tả phong độ thong dong, nhàn nhã.

Tết Trùng Dương ngày 9 tháng 9, Lý Bạch uống rượu ở núi Long Sơn (phía tây bắc Giang Lăng, Hồ Bắc), hoa cúc nở rộ khắp nơi, bất kể nhà thơ đi đến đâu, cũng thấy những đóa cúc vàng nở bung như mỉm cười đón mình. Lúc say ngắm di tích “gió rơi mũ” năm xưa, nhớ lại cổ nhân phóng khoáng, uống rượu dưới trăng, ngắm nhìn nàng tiên trên cung trăng ca múa uyển chuyển.

Cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng 3 chữ “nguyệt lưu nhân” (trăng lưu giữ người), đã để lại một bức tranh vô cùng sinh động. Nhà thơ và tiên nữ cùng say múa nhạc khúc thần tiên. Nhà thơ chìm đắm trong cảnh thoát tục quên trần thế, trăng thanh gió mát, mà tiên nữ trên cung trăng cũng bằng điệu múa tiên uyển chuyển biểu đạt ý lưu luyến chẳng rời.

Trăng là hình ảnh thường xuất hiện trong thơ Lý Bạch. Dưới cây bút của ông, trăng muôn ngàn dáng vẻ. Tình cảm của ông đối với trăng có thể nói là thiên hạ vô song. Trong những thi phẩm của ông, vầng trăng sáng vừa giống như một tấm gương soi hết cả nhân gian, lại giống như một cánh cửa mở ra vũ trụ bao la, khiến người đời sau mỗi lần ngắm trăng đều nhớ đến những câu thơ tuyệt mỹ này mà cảm khái. Hàng trăm nghìn năm nay, con người vịnh trăng, thưởng nguyệt, tìm kiếm ý nghĩa đích thực của đời người, dấy lên khát vọng trở về với cái tốt đẹp, thiện lương và vĩnh hằng.