Thời đại thám hiểm và khám phá (1420-1620)

Christoper Columbus tới châu Mỹ trong hành trình thám hiểm. (Tranh: L. Prang & Co., Boston, Wikipedia, Public Domain)
 

1 – Nguyên do thám hiểm


Trong lịch sử của thế giới Tây phương và trong hai thế kỷ giữa các năm 1420 và 1620, người châu Âu đã mạo hiểm, vượt biển để đi tìm hiểu các miền đất xa lạ. Sự khám phá của họ đã đưa đến việc thuộc địa hóa và định cư tại các vùng đất mới, đã mang lại cho họ các sản phẩm mới, tài sản mới, cơ hội mới, vấn đề mới và cách suy nghĩ mới. Cũng do các công cuộc thám hiểm và khám phá của người châu Âu này mà các quốc gia mới được thành lập, chẳng hạn như quốc gia Hoa Kỳ.

Các nhà thám hiểm với tên họ quen thuộc với chúng ta như Vasco da Gama, Christopher Columbus, Ferdinand Magellan… đã ra đi vì các mục đích nào, bằng các phương tiện nào và đã đạt được các thành quả nào? Tại sao các công cuộc thám hiểm và khám phá lại bắt đầu do các quốc gia Tây Âu, mà không phải do các nước đã có một nền văn minh tương đối phát triển như Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản tại châu Á, do các nước theo đạo Hồi tại châu Phi và miền Trung Đông, do các xứ Aztecs, Inca và Maya của miền Trung Mỹ?

Vào thời kỳ đó, các miền đất kể trên đã là các lãnh thổ rộng lớn hơn, có các trình độ văn minh cao hơn các quốc gia Tây Âu. Các quốc gia như Trung Hoa đã có dân số phát triển, có nền văn minh riêng với khoa học, kỹ thuật và văn chương, họ có cả các cuốn sách và bản đồ mô tả về lãnh thổ của họ.

Vào thời kỳ Đen Tối (the Dark Ages), những người Scandinavian đã tới được miền Bắc Mỹ trước Christopher Columbus, rồi trong thế kỷ 13, đã có những nhà thám hiểm như Giovanni de Plano Carpini, Willen van Rujsbroek và Marco Polo… Thời đại thám hiểm liên quan tới thời kỳ Phục Hưng (the Renaissance), theo đó con người bắt đầu tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên, xét lại các thành quả cũ đã đạt được với sự trong sáng mới, cách khảo cứu và suy luận mới…

Vào đầu thế kỷ 15, phương pháp thám hiểm hàng hải bắt đầu được tổ chức theo hệ thống, nhờ đó các kỹ thuật đi biển được cải tiến. Việc thám hiểm và khám phá được các vua chúa và các nhà tài chính chủ trương, khuyến khích. Họ hiểu rằng các con tàu biển tốt hơn, cùng với các dụng dụ đo lường chính xác hơn, các phương pháp vẽ bản đồ và kỹ thuật đi biển mới… đã khiến cho các hải trình xa hơn, khó khăn hơn được thực hiện.

Vào thời kỳ đó, người châu Âu đã biết rằng có các quốc gia như Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ…, việc tìm cách tới được những quốc gia này sẽ mang lại nhiều lợi ích nhờ thương mại. Các quốc gia dẫn đầu trong việc thám hiểm và khám phá là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp và Hòa Lan. Trí tưởng tượng phong phú của người châu Âu, các nhu cầu đặc biệt của thời kỳ đó đã khiến cho họ đi tìm hiểu thế giới bên ngoài. Châu Âu của thời kỳ Phục Hưng rất cần các kim loại quý và các thứ hương liệu (spices).

Vào thời Trung Cổ (the Middle Ages), các thương gia của châu Âu đã trao đổi để có vàng, lụa và các loại hương liệu của miền Viễn Đông nhưng sang thế kỷ 15, các chính quyền của châu Âu đã tham gia vào việc khám phá, không phải do lòng tham mà do nhu cầu. Châu Âu vào thời kỳ này đã thiếu kim loại quý để đúc tiền. Các mỏ vàng tại Ái Nhĩ Lan (Ireland) đã cạn, các mỏ bạc tại Đức dù cho khá phong phú cũng không đáp ứng được sức cầu. Không có tiền đúc ra, sẽ không có sự trao đổi tài chính và nền thương mại không thể phát triển. Các khối vàng bạc để đúc tiền không những tượng trưng cho sự giàu có mà còn là một phương tiện để làm tăng thêm sự giàu có.

Vào thời kỳ Phục Hưng, thực phẩm chỉ có thể lưu trữ được nhờ muối rồi sau đó, nhờ cách ướp bằng các hương liệu vì thời bấy giờ chưa có kỹ thuật đông lạnh và các phương tiện vận chuyển thực phẩm còn thô sơ. Gia vị như vậy rất cần thiết ngoài lợi ích giúp cho đồ ăn có các hương vị đặc biệt.

Nhu cầu thứ ba của việc thám hiểm và khám phá là niềm tin tôn giáo. Các người sùng đạo đã muốn làm vừa lòng Thiên Chúa bằng cách giảng đạo và cải biến những kẻ dị giáo theo họ. Dân chúng và chính quyền Tây phương vào thời kỳ này đã tin tưởng rằng nhiệm vụ của họ là làm cho các người khác tôn giáo hay vô tôn giáo có cùng niềm tin như chính họ. Nhu cầu này còn có một lợi ích thực tế khác là những thổ dân theo đạo mới đã trở nên dễ bảo hơn, các tù trưởng cải đạo đã cộng tác và phục vụ chân thành hơn cho người châu Âu.

Cũng vì thế, mặc dù biết rằng công cuộc thám hiểm thành công hay thất bại được căn cứ vào số vàng bạc và hương liệu mang về, Christopher Columbus còn ghi thêm vào sổ về miền đất mới của châu Mỹ một cách thành thực rằng: “Tôi cho rằng điều ước mong chính của nhà Vua của chúng tôi là cải biến dân tộc này theo niềm tin của Chúa”. Người biện hộ cho các hoạt động thám hiểm của nước Anh là Richard Hakluyt đã phát biểu rằng việc mở rộng lãnh thổ của Nữ Hoàng Anh sẽ mang lại lợi nhuận, quyền lực, danh dự và cả việc làm sáng danh Chúa bằng cách ươm trồng tôn giáo vào các kẻ dị giáo hay không có tín ngưỡng.

Vào thời kỳ Phục Hưng, việc quan tâm tới thám hiểm và khám phá không phải lý do kiến thức (knowledge). Người châu Âu chỉ muốn khai thác các mỏ kim loại quý rồi sau đó, lo bảo vệ các con đường thương mại đã được tìm thấy. Cũng vào lúc này, người châu Âu biết rằng nhờ các con tàu biển, các thủy thủ gan dạ có thể tới được bất cứ miền đất nào có bờ biển rồi quay về xứ an toàn. Đây là điều quan trọng nhất.

Người Norse (Norsemen) đã vượt qua vùng biển bắc Đại Tây Dương bằng các con thuyền có lẽ được trang bị bằng một cánh buồm và họ có thể đi khá xa. Người Scandinavian đã tìm cách vượt biển, di cư tới miền đất mới vì quê hương của họ chật hẹp và đông người. Trái với hai giống người kể trên, các nhà thám hiểm châu Âu thuộc thế kỷ 15 lại có một quan niệm khác: họ muốn trở về quê hương, mang về tài sản kiếm được.

2 – Phương tiện thám hiểm


Vào thế kỷ 15, đã có những người đi biển tại châu Á dùng thuyền có buồm, vượt qua Ấn Độ Dương để đi từ Ấn Độ tới đảo Madagascar và ngược lại, nhưng những phương tiện hải hành này phải nhờ vào các trận gió, các giòng nước biển thuận lợi. Trên các vùng biển quanh Ấn Độ, tại Hồng Hải (the Red Sea) và tại phía đông châu Phi, các con thuyền Ả Rập (the Arab dhow) đã bơi xuôi ngược, nhưng loại thuyền này không thích hợp với việc vượt biển khám phá và tìm hiểu, vì mạn thuyền được khâu lại bằng thứ sợi dây dừa, nên không vững chắc như loại tàu biển có đóng đinh. Loại buồm một cánh hình tam giác của người Ả Rập đã không hơn được thứ buồm hình vuông của châu Âu.

Tàu biển của người Tây phương vào thế kỷ 15 là sự phối hợp của hai kỹ thuật thuyền có buồm vuông của miền Bắc Hải (the North Sea) với loại thuyền chèo (oared galley) của vùng Địa Trung Hải. Chính việc thương mại giữa hai miền bắc và nam của châu Âu đã khiến cho hai loại thuyền kể trên được phối hợp để cải tiến thành một thứ tàu biển đi xa được. Tàu biển của châu Âu vào thời kỳ này dùng buồm, không dùng sức chèo, lại được lắp các khẩu súng tại hai bên sườn nhờ vậy hỏa lực rất mạnh và hữu hiệu khi tác chiến.

Qua nhiều thế kỷ đi biển, các quốc gia châu Âu đã có kinh nghiệm tại vùng biển English Channel, tại các vùng nước băng tuyết giữa Greenland và Scandinavia. Các thủy thủ là những người không có học vấn, không quan tâm về tôn giáo nhưng có truyền thống tận tụy, chịu đựng được gian khổ, tuy thế tỉ lệ thủy thủ trở về nhà sau các chuyến hải hành là 50 phần trăm vì các thủy thủ thường mắc bệnh hoại huyết và các bệnh thiếu dinh dưỡng, vì gặp bão táp và mắc cạn tại các vùng biển xa lạ, vì gặp thổ dân ăn thịt người và các bất trắc khác. Như vậy tại sao lại có những người tình nguyện làm việc trên các con tàu viễn du?

Không có tài liệu nào cắt nghĩa các động lực theo đó có các thủy thủ tình nguyện, nên người ta chỉ có thể phỏng đoán có lẽ do lương bổng trả cao hơn tại các cuộc mạo hiểm, bởi vì các chuyến vượt biển đi thám hiểm được tài trợ bởi ngân quỹ của nhà vua hay do tiền vốn đóng góp của một số nhà buôn giàu có. Cũng vào đầu thế kỷ 15, tuổi thọ của người dân vào khoảng 30 năm và cuộc sống trên đất liền cũng khó khăn và bất trắc, số nông dân và thương nhân bị chết vì bệnh dịch nhiều như số thủy thủ chết vì bệnh hoại huyết. Khi tàu đã ra khơi, thuyền trưởng thường dùng tới nhiều thủ đoạn đối với thủy thủ đoàn, thường là các lời tán dương, hăm dọa, lường gạt, các khoảng cách giả, các bản đồ bỏ bớt những hải đảo mà tàu biển có thể ghé vào.

Theo các sổ nhật ký ghi chép trên các con tàu thám hiểm, lời than van của thủy thủ không phải là về hiểm nguy hay cực nhọc trên tàu, mà là sự nhàm chán của chuyến đi xa và sự ít cơ may trở về nhà. Còn đối với thuyền trưởng, một trong các nguyên do thúc đẩy họ đi thám hiểm là hy vọng kiếm được nhiều tài sản, thế nhưng không một thuyền trưởng nào qua đời trong cảnh giàu sang, kể cả Christopher Columbus. Chỉ có các nhà chinh phục (conquistador) cai trị tại Ấn Độ và tại các xứ Mỹ Châu của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mới giàu sang cho đến chết.

Cho nên một trong các động lực của các thuyền trưởng là sự vinh quang cá nhân. Họ thích nổi danh vì gan dạ, vì khôn ngoan và tài giỏi. Tại Mễ Tây Cơ, Hernando Cortes đã bắt chước hành động oai hùng của người La Mã. Ngoài ra, tại châu Âu vào đầu thế kỷ 15, con người đã có một phần nào tự do hành động, không bị trói buộc như tại xã hội Trung Hoa, nơi có gia đình kiềm chế, hay tại Ấn Độ nặng về giai cấp xã hội. Tôn giáo của châu Âu là Thiên Chúa Giáo, vừa mang tính bành trướng, vừa có tính quân sự (militant). Trái với đạo Hồi chủ trương một cuộc sống tốt đẹp sau khi đã chết, đạo Thiên Chúa nhấn mạnh về hạnh phúc nơi dương thế và người theo đạo Thiên Chúa có tính tự tôn trong hành động.

Vào thế kỷ 14, các nền chính trị và kinh tế đã sống lại tại nước Ý. Dân chúng thành phố gia tăng đã sinh ra các nhu cầu thực tế trong đó có nhu cầu Giáo Dục phổ thông, ngoài nhiều nhu cầu thuộc các phạm vi khác như Văn Thơ và Triết Học, Kiến Trúc và Y Học. Nước Ý vào thời bấy giờ gồm nhiều xứ tự trị nên mỗi khi có xứ nào bị chiến tranh tàn phá thì các xứ khác vẫn phát triển và do người dân Ý dùng tới loại lính đánh thuê nên đời sống tại các thành thị của họ ít bị ảnh hưởng. Chính vì thế, nền văn hóa cổ điển đã được phục hưng, đại diện chính là tác phẩm “Quân Vương” (the Prince) của Machiavelli và các công trình điêu khắc của Michelangelo vào thế kỷ 16. Ngoài ra các học giả người Ý còn nổi tiếng về các bộ môn Toán Học, Thiên Văn và Địa Dư.

Đồng thời với sự phát triển tại nước Ý, các nước tại phía tây của châu Âu cũng có những nét đặc thù: nền thương mại trở nên phức tạp hơn với ngành tài chính được chính quyền quan tâm tại các nước Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và các xứ Đức Phổ. Riêng hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã đạt được các tiến bộ đáng kể về phép vẽ bản đồ và kỹ thuật đi biển. Những căn bản này rất quan trọng đối với các nhà thám hiểm vì được rút ra từ kiến thức cổ điển của nước Ý cộng với các kinh nghiệm của các thủy thủ cao tay nghề, với các nguyên tắc địa dư, toán pháp của các nhà toán học người Ả Rập và với sự học hỏi do trao đổi thương mại tại các xứ Hồi Giáo.

Vì vậy không đáng ngạc nhiên khi thấy nước Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm bờ biển phía tây của châu Phi vào đầu thế kỷ 15 rồi sau đó nước Tây Ban Nha cũng theo đuổi chính sách khám phá. Hai quốc gia này nằm trên bán đảo Iberian rất thuận tiện cho việc ra biển, lại quen thuộc với loại tàu biển của hai miền biển Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Các tàu buồm ra khơi từ hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã sớm biết lợi dụng các luồng gió mùa, mùa xuân tới đầu mùa hè, gió thổi theo hướng tây nam hướng ra Đại Tây Dương, rồi đổi hướng thổi, đưa các con tàu buồm trở về bến vào mùa thu.

Vào thời kỳ đầu của giai đoạn thám hiểm, hai quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã giấu kín các điều khám phá. Các khám phá của Vasco da Gama, của Ferdinand Magellan hay của Sebastian del Cano đã không được phổ biến, còn nhật ký của Christopher Columbus tuy còn được lưu lại nhưng chỉ là một bản tóm tắt do một người khác sao chép. Sự kín đáo này một phần cũng do các thuyền trưởng là những người thực tế, không quen với việc mô tả, ghi chép. Họ cũng không muốn cung cấp các điều khám phá cho ai ngoài các bậc vua chúa bảo trợ họ. Các chính quyền Tây Âu thì muốn giữ độc quyền các nguồn lợi khai thác tại các miền đất mới nên càng khuyến khích sự bảo mật. Các chi tiết về khám phá vì thế thường được ghi chép do các nhà ký sự (chroniclers) hay các nhà du lịch tài tử và những người này thường căn cứ vào các lý thuyết cổ điển, các điều ước đoán thiên văn cũng như vào các kinh nghiệm thu lượm được.

Trong khi hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang theo đuổi các chương trình thám hiểm và dấu kín các khám phá, thì tại hai hải cảng Lisbon và Seville, các con tàu biển trở về sau các chuyến hải hành đã mang về nào hương liệu, ngà voi, nào phẩm nhuộm… và cả người nô lệ. Các thương gia ngoại quốc buôn bán tại các hải cảng kể trên thường được nghe kể về chuyến đi. Họ ghi chép tin tức mới lạ, hối lộ để sao chép bản đồ… rồi chính quyền của các nước quanh vùng đã phải quan tâm tới cảnh giàu sang mới, quyền lực mới. Đầu tiên là nước Anh, tới nước Pháp rồi tới cuối thể kỷ 16 có nước Hòa Lan cũng tham gia vào danh sách tranh đua khiến cho việc thám hiểm trở nên một phong trào của châu Âu.

Trong 2 thế kỷ với một số thủy thủ gan dạ, vài quốc gia của châu Âu đã đi vào các vùng biển xa lạ, bắt cóc một số thổ dân rồi dần dần lập nên các khu vực chiếm đóng tại những địa phương đã thám hiểm. Thành công của họ là do kỹ thuật, do tâm lý muốn xâm chiếm đất đai và chế ngự các dân tộc khác. Sự đô hộ của người châu Âu đã gặp ít chống đối tại các bộ lạc kém văn minh như bộ lạc Arawark của miền Tây Ấn, hay bộ lạc Tupinamba sống tại xứ Brazil. Người da đỏ chuyên săn bắn sinh sống tại Bắc Mỹ, tại vùng đất giữa Ngũ Hồ và các tiểu bang Carolina, đã lập được hệ thống chính quyền tương đối cao nên đã kháng cự lại số người da trắng di cư tới. Nhưng khuyết điểm của họ là vì họ tin tưởng vào các thần linh cư ngụ tại mỗi nơi, như các tảng đá, cây cao, thú vật… cũng vì thế họ đã thỏa hiệp với những kẻ xâm lăng và đành sống lùi xa nơi khai phá của người da trắng.

Tại miền Trung Mỹ, giống người Maya của các miền Yucatan và Guatemala đã biết trồng ngũ cốc, sống trong các thành phố và duy trì được một thứ tổ chức chính quyền liên bang đơn giản. Họ có văn hóa, biết dùng các số đếm kể cả số không. Người Tây Ban Nha khi xâm lăng các vùng đất này đã gặp may mắn nhờ người Maya mới bị suy yếu vì nội chiến và vũ khí của họ không tinh xảo bằng thứ của người châu Âu. Hai thổ dân văn minh nhất của châu Mỹ là người Aztecs thuộc miền Trung Mỹ và người Inca của miền Peru, cũng phải đầu hàng trước súng đạn của người Tây Ban Nha, rồi do truyền thống vâng lời và kỷ luật, hai sắc dân kể trên đành tuân phục các kẻ xâm lăng.

Tại châu Á, người châu Âu đã tiếp xúc với người Trung Hoa dưới triều Minh vào thế kỷ 15. Đây là xứ sở với văn hóa và nghệ thuật cao hơn thứ của châu Âu, nhưng vì người Trung Hoa đã tự mãn, một phần vì tôn giáo, phần khác vì bị vây quanh bởi một hệ thống thư lại khép kín và tham nhũng, họ đã không muốn tiếp xúc với các dân tộc khác. Vị giáo sĩ Dòng Tên người Ý tên là Matteo Ricci tới Trung Hoa năm 1582 và sống tại đó trong 28 năm cho tới khi chết, đã nói rằng người Trung Hoa không có ý niệm về thế giới bên ngoài. Trong khi tại châu Âu, các tiến bộ về Khoa Học và Kỹ Thuật đang phát triển thì tại Trung Hoa, các bộ môn kể trên không được giới trí thức quan tâm, nhất là về Toán Học và Y Khoa.

Ngoài Trung Hoa, Nhật Bản cũng là một quốc gia có một nền văn hóa rất rực rỡ, đặc biệt với hai ngành Kiến Trúc và Hội Họa. Cho tới thế kỷ 16, nước Nhật Bản đã ở vào tình trạng vô chính phủ trong ba thế kỷ và cũng giống như nước Trung Hoa, người Nhật Bản đóng cửa với thế giới bên ngoài. Sự cấm đoán đã dẫn tới các đạo luật năm 1635 kết tội tử hình những người đi ra khỏi xứ.

Phạm Văn Tuấn
Trích đăng từ Đặc San Lâm Viên (www.dslamvien.com)

Tài liệu tham khảo:

  • Wikipedia.org.

  • Britannica Encyclopedia

  • “A History of the Modern World”, R.R. Palmer & Joel Colton, Alfred A. Knopf, N.Y. 1991.

Kính mời Quý vị xem bài viết chi tiết tại đây: https://trithucvn2.net/van-hoa/thoi-dai-tham-hiem-va-kham-pha-1420-1620.html