5 thg 1, 2025
26 phút đọc
698lượt xem
26 phút đọc

Luyện đề thi tốt nghiệp THPT môn ngữ văn: ĐỀ SỐ 5

I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)

Đọc văn bản: 

Tóm tắt: Nhân vật chính tên Khuê, cũng là người kể chuyện xưng “tôi” của tiểu thuyết “Tuổi hai mươi yêu dấu” là một sinh viên đại học, một cậu con trai thành phố có hoàn cảnh khá may mắn: bố là nhà văn nổi tiếng, mẹ yêu con. Một lần bị bố đánh, Khuê bỏ nhà ra đi và dấn thân vào cuộc sống giang hồ. Rồi “sai lầm dẫn tới sai lầm, giống như trò chơi xếp hình đôminô, chỉ là một cú hẩy nhẹ của số phận là bắt đầu cho những phiêu lưu”, Khuê sa chân vào con đường nghiện ngập và không tự kiểm soát được mình. Trong một lần bị những người xung quanh xông vào nhằm đánh chết thằng nghiện, Khuê được một nhà thơ bạn của bố cứu. Nhà thơ đưa Khuê ra một hòn đảo hoang để cai nghiện. Sống giữa thiên nhiên và được sự giúp đỡ của những con người chất phác, Khuê đã thoát khỏi ma túy. Phần trích dẫn sau đây là chương cuối cùng của tiểu thuyết.

Tôi đã rời nhà ra đi hơn một năm trời. Trong khoảng thời gian đầu tiên, thú thực tôi cũng không nhớ gì nhiều về gia đình tôi, có lẽ bởi liên tiếp những sự việc xảy ra đã cuốn tôi đi, như người ta nói cuốn theo chiều gió.

Tôi đã sững sờ vì một lần lên bờ cắt tóc, soi trong gương tôi nhận ra đầu mình bạc trắng! Tôi không tin được là tôi có thể biến đổi đến như ngần ấy. Trong tiệm cắt tóc có một tập báo cũ, vô tình tôi vớ lên xem. Tôi lặng người đi khi đọc báo thấy tin bố tôi vừa mất! Nước mắt tôi trào ra. Những dòng chữ nhảy nhót, nhòa đi trước mắt tôi. Tôi gục xuống như bị một đòn trời giáng, run rẩy hết cả chân tay. Mọi người chạy lại đỡ tôi nhưng tôi gạt đi rồi chạy ra ngoài, vừa chạy vừa khóc nức nở. Trời đất như sụp đổ trước mặt tôi.

Bố!

Bây giờ tôi mới biết khóc như cha chết là khóc thế nào. Chắc chắn đó là cái khóc lớn nhất đời một con người.

Tôi chạy vào rừng, ngã xuống. Hình ảnh bố tôi hiện ra thân thiết và gần gũi quá. Những dòng đưa tin trên báo thật lạnh lùng. Có cả vạn người đưa tang bố tôi, điều ấy có ý nghĩa gì khi không có tôi ở đấy! Chao ôi! Tôi là thằng con bất hiếu, thằng con nghịch tử! Nỗi ân hận bật thành tiếng khóc cứ thế trào ra! Tôi muốn gào lên cho thấu trời xanh!

Bố tôi, người thân yêu nhất của tôi! Bây giờ ngẫm lại tôi mới hiểu rõ bố tôi có ý nghĩa thế nào với tôi.

Như nhiều ông bố khác, có lẽ bố tôi cũng đã vất vả kiếm sống nuôi vợ nuôi con. Nhưng là nhà văn, bố tôi có những phẩm chất khác với mọi người.

Viết văn, đó là công việc không dễ dàng gì. Nhiều khi đùa bỡn, bố tôi vẫn bảo đó là một công việc thổ tả, công việc chết người.

Cái khó của một nhà văn - ông nói - đó là việc anh ta phải độc hành kỳ đạo trong cuộc đời mình. Nó gần như công việc của các bậc tiểu thánh. Điều khốn nạn, trớ trêu và cũng là điểm yếu của một nhà văn là dù hiểu đời, lịch lãm đến đâu cuối cùng anh ta vẫn phải hành xử và biết trình bày tư tưởng nhân đạo một cách nghệ thuật. Giá trị nhân đạo là lý do duy nhất để cho văn học tồn tại, trước khi nói đến chức năng giải trí hay mua vui.

[…]

Bố!

Tôi biết bố tôi sẽ tha thứ cho tôi vì những lỗi lầm xã hội của tôi. Ông hiểu và cũng bất lực trước những lỗi lầm xã hội ấy. Tôi phải cứu tôi và chẳng có ai làm được hộ tôi chuyện ấy.

Bố!

Con hình dung ra được đám tang của bố! Có nhiều người đến tiễn đưa. Chắc sẽ lại có một tay thổi kèn saxo nào đấy biểu diễn một bài ai oán. Người ta đọc điếu văn. Có thể sẽ có những tay nhà thơ chuyên làm thơ phúng điếu giả vờ khóc lóc để huyênh hoang khoe mẽ nàng thơ của mình. Sẽ có bạn đọc, chắc chắn thế, và sẽ có những người bạn đọc chất phác đến tiễn đưa ông về nơi yên nghỉ vĩnh hằng.

Tôi biết bố tôi vẫn thích những đám ma dân giã của người Việt Nam nhà quê. Có thể nó vớ vẩn, nhiều khi còn nhếch nhác và chẳng văn minh chút nào nhưng ở đó nó có sự giản dị - điều thiết yếu cần thiết cho nhà văn và cái chết.

Có lần tôi đã theo bố tôi dự một đám ma ở vùng núi trên Phú Thọ. […] Ấn tượng về đám ma ấy in sâu trong tâm trí tôi. Những lời hát vu vơ như xát muối trong lòng tôi. Và mái tóc bạc trên đầu tuổi xanh. Tôi hiểu điều ấy có ý nghĩa gì.

Chắc chắn tôi phải về nhà chịu tang bố tôi. Ngay hôm nay. Ngay lúc này. Có thể tôi sẽ học lại đại học. Có thể tôi sẽ ở cùng mẹ tôi một thời gian. Mẹ thì không bao giờ được quên. Có thể tôi sẽ viết văn giống như bố tôi hoặc làm một nghề gì khác. Dù sao đi nữa cuộc sống cũng có những giá trị đẹp đẽ của nó, không thể vì bất cứ lý do gì mà hủy hoại nó đi. Bạn trẻ, tin tôi đi! Nếu chưa trưởng thành, chưa thực sự đủ lông đủ cánh thì bạn cũng đừng vội vã tuột xích như tôi. Và mái tóc bạc trên đầu tuổi xanh.

Tôi là Khuê. Năm nay tôi 21 tuổi. Phía trước tôi là cả cuộc đời mà tôi phải tìm hiểu và khám phá nó.

(Nguyễn Huy Thiệp – Tuổi hai mươi yêu dấu, NXB Hội nhà văn, 2018)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Câu 1. Trong đoạn trích, sự kiện nào tác động sâu sắc đến suy nghĩ và tình cảm của nhân vật tôi?

Câu 2. Xác định chủ thể của điểm nhìn trần thuật trong đoạn văn sau: “Hình ảnh bố tôi hiện ra thân thiết và gần gũi quá. Những dòng đưa tin trên báo thật lạnh lùng. Có cả vạn người đưa tang bố tôi, điều ấy có ý nghĩa gì khi không có tôi ở đấy! Chao ôi! Tôi là thằng con bất hiếu, thằng con nghịch tử!

Câu 3: Phân tích tác dụng của việc tách câu đặc biệt “Bố!” ra thành một đoạn văn.

Câu 4. Nhận xét tác dụng của việc tác giả lựa chọn kể chuyện ở ngôi thứ nhất.

Câu 5. Từ những trải nghiệm và suy ngẫm của nhân vật Khuê trong đoạn trích,  anh/chị rút ra cho mình bài học gì về cách ứng xử trong gia đình. 

II. VIẾT (6.0 điểm)

Câu 1. (2.0 điểm):

 Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật tiểu thuyết qua nhân vật “tôi” trong đoạn trích tiểu thuyết “Tuổi hai mươi yêu dấu” ở phần Đọc hiểu.

Câu 2. (4.0 điểm):

 Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về chủ đề Đối diện với sai lầm của tuổi trẻ.

---------- HẾT ----------

Bìa sách Tuổi hai mươi yêu dấu (Nguyễn Huy Thiệp)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Câu 1: 0.5 điểm

Sự kiện tác động sâu sắc đến suy nghĩ và tình cảm của nhân vật tôi: tôi đọc báo và biết tin bố mất.

Câu 2: 0.5 điểm

Chủ thể của điểm nhìn trần thuật trong đoạn văn là: tôi/ nhân vật Khuê.

Câu 3: 1.0 điểm

Tác dụng của việc tách câu đặc biệt “Bố!” ra thành một đoạn văn:

- Diễn tả những cảm xúc mạnh mẽ, dữ dội, mãnh liệt mà nhân vật tôi liên tiếp trải qua sau khi biết tin bố mất: ân hận, day dứt, đau khổ, dằn vặt, tiếc nuối… Mỗi lần câu cảm thán “Bố!” xuất hiện là tiền đề cho những cảm xúc và hồi tưởng về bố tuôn trào. 

- Tạo nhịp điệu chậm rãi, giọng điệu câu văn như tiếng nấc nghẹn ngào, bất lực của nhân vật.

- Thể hiện tài năng và sự am hiểu tâm lý nhân vật của nhà văn. 

Câu 4: 1.0 điểm

Tác dụng của việc kể chuyện ở ngôi thứ nhất:

- Câu chuyện diễn ra dưới điểm nhìn, cách quan sát, đánh giá của nhân vật Khuê – một cậu thanh niên - khiến câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực, sinh động.

-  Có khả năng đi sâu vào ngóc ngách tâm lý nhân vật để phơi bày những cảm xúc, cảm giác, suy ngẫm bên trong nhân vật; tạo sự đồng cảm đối với người đọc.

Câu 5: 1.0 điểm

- Trải nghiệm và suy ngẫm của nhân vật Khuê: trượt dài trong những sai lầm, tự nhận ra sai lầm, muốn sửa chữa sai lầm, khuyên giới trẻ đùng mắc sai lầm giống mình. 

- Rút ra bài học: ý nghĩa thiêng liêng của tình cảm gia đình, biết ơn sự hi sinh của cha mẹ, biết nhận lỗi và sửa sai… 

II. VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật tiểu thuyết qua nhân vật “tôi” trong đoạn trích tiểu thuyết “Tuổi hai mươi yêu dấu” ở phần Đọc hiểu.

a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0.25 điểm)

- Hình thức: một đoạn văn, thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.

- Dung lượng: khoảng 200 chữ

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0.25 điểm):

Phân tích đặc điểm của nhân vật tiểu thuyết qua nhân vật “tôi” trong đoạn trích tiểu thuyết “Tuổi hai mươi yêu dấu” ở phần Đọc hiểu.

c.Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau: (1.0 điểm)

* Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận; trình bày rõ quan điểm và hệ thống ý; lập luận chặt chẽ, thuyết phục (lí lẽ xác đáng; biết phân tích các dẫn chứng trong văn bản để làm sáng tỏ cho lập luận).

* Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận.

- Nhân vật “tôi” trong đoạn trích tiểu thuyết “Tuổi hai mươi yêu dấu” (Nguyễn Huy Thiệp) mang đầy đủ đặc điểm của nhân vật tiểu thuyết.

+ Nhân vật tôi là con người bình thường của cuộc sống đời thường: một đứa con ngỗ nghịch trong gia đình, một thanh niên thành phố với những sai lầm do hoàn cảnh đưa đẩy…

+ Là con người nếm trải với một loạt những hành động (khóc, chạy vào rừng), cảm xúc (nỗi đau đớn, ân hận, dày vò); kí ức (những kỉ niệm với bố); vỡ lẽ (Bây giờ ngẫm lại tôi mới hiểu rõ bố tôi có ý nghĩa thế nào với tôi); dự định (Chắc chắn tôi phải về nhà chịu tang bố tôi. Có thể tôi sẽ học lại đại học. Có thể tôi sẽ ở cùng mẹ tôi một thời gian); chiêm nghiệm (cuộc sống cũng có những giá trị đẹp đẽ của nó. Bạn trẻ, tin tôi đi! Nếu chưa trưởng thành, chưa thực sự đủ lông đủ cánh thì bạn cũng đừng vội vã tuột xích như tôi).

+ Là con người không bất biến: từ không hối hận, không nhớ về gia đình (Tôi đã rời nhà ra đi hơn một năm trời. Trong khoảng thời gian đầu tiên, thú thực tôi cũng không nhớ gì nhiều về gia đình tôi) đến ân hận, day dứt, mặc cảm tội lỗi và quyết định trở về (Bây giờ tôi mới biết khóc như cha chết là khóc thế nào. Chắc chắn đó là cái khóc lớn nhất đời một con người… Hình ảnh bố tôi hiện ra thân thiết và gần gũi quá…)

+ Được miêu tả tỉ mỉ, chân thực, sinh động từ hành động đến suy nghĩ, nhận thức; được khắc họa diễn biến nội tâm một cách phong phú, phức tạp; được soi chiếu từ nhiều điểm nhìn cả bên ngoài lẫn bên trong…

- Nhân vật “tôi” là phương tiện khái quát hiện thực, khái quát quan điểm nghệ thuật của nhà văn: sai lầm và sự cần thiết của việc đối diện với sai lầm của tuổi trẻ, vai trò của gia đình và giáo dục gia đình đối với người trẻ…

d. Diễn đạt (0.25 điểm)

Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.

e. Sáng tạo (0.25 điểm)

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

Câu 2 (4,0 điểm)

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về chủ đề: Đối diện với sai lầm của tuổi trẻ.

a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận xã hội (0.25 điểm)

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luậnĐối diện với sai lầm của tuổi trẻ.

c.  Viết bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu sau: (2.5 điểm)

* Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận; trình bày rõ quan điểm và hệ thống ý; lập luận chặt chẽ, thuyết phục. 

* Đề xuất được hệ thống ý phù hợp, sắp xếp các ý theo bố cục 3 phần của bài văn nghị luận:

  Giới thiệu vấn đề nghị luận: Đối diện với sai lầm của tuổi trẻ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

  Triển khai vấn đề nghị luận:

* Giải thích:

- Sai lầm của tuổi trẻ: những suy nghĩ non nớt, thiếu chín chắn của tuổi trẻ dẫn đến những lời nói, hành động, quyết định trái với yêu cầu khách quan hoặc lẽ phải, gây hậu quả nhất định, trong một vài trường hợp có thể gây tác hại nghiêm trọng. 

- Đối diện với sai lầm: nhận ra sai lầm, thừa nhận sai lầm, chịu trách nhiệm về sai lầm, học hỏi từ sai lầm, sẵn lòng sửa sai.

→ “đối diện với sai lầm của tuổi trẻ” là điều cần thiết đối với mỗi người trẻ. 

* Bàn luận:

- Sự cần thiết của việc đối diện với sai lầm của tuổi trẻ:

+ Cơ sở:

++ Cuộc sống luôn vận động, biến đổi không ngừng, tiềm ẩn những thử thách đối với nhận thức và hành động của con người, nhất là người trẻ. Các quy luật, yêu cầu khách quan của cuộc sống nhiều khi không tồn tại sẵn có mà là kết quả của quá trình khám phá, nhận thức dần dần, thậm chí là quá trình đóng góp, chinh phục của cả nhân loại. 

++ Hiểu biết, nhận thức, khả năng của con người, nhất là người trẻ có những giới hạn nhất định. Trong cuộc sống, người trẻ khó có thể tránh khỏi những vấp váp, những sai lầm, ngộ nhận do non nớt, bồng bột... Sai lầm dường như là một phần tất yếu của cuộc sống. 

+ Ý nghĩa của đối diện với những sai lầm của tuổi trẻ: 

++ Đối diện với sai lầm, học hỏi từ sai lầm để trưởng thành là một quá trình liên tục, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, biết vượt lên những lực cản từ chính bản thân.

++ Học hỏi từ những sai lầm giúp chúng ta tránh được những sai sót đáng tiếc, tránh mắc cùng một lỗi nhiều lần, giúp chúng ta lấy lại được cảm giác thanh thản, cân bằng…

++ Đối diện với sai lầm giúp hình thành bản lĩnh, lối sống trung thực, dũng cảm…, tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với xã hội.

- Điều kiện để đối diện với sai lầm của tuổi trẻ:

+ Nhìn thẳng vào sai lầm, không chống chế, né tránh trách nhiệm, không đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh.

+ Phân tích, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sai lầm (do điều kiện khách quan chi phối, do các yếu tố chủ quan đến từ hiểu biết, trải nghiệm, định kiến,... của cá nhân).

+ Tìm cách khắc phục, giải quyết hậu quả do sai lầm dẫn đến (bắt đầu giải quyết vấn đề từ đâu, cần dựa vào điều gì ở bản thân, cần sự trợ giúp từ ai,...).

+ Nỗ lực, rèn luyện ý chí, sự tập trung cao độ để đứng dậy từ sai lầm, không sợ hãi trước sai lầm.

+ Bao dung với sai lầm của bản thân và người khác trong cuộc sống, tạo cơ hội cho mình và người khác được sửa sai,...

* Mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác 

- Ý kiến trái chiều: Không cần đối diện sai lầm vì đó là một phần tất yếu của tuổi trẻ hoặc đổ lỗi cho hoàn cảnh và không muốn chịu trách nhiệm cho sai lầm của mình.

- Trao đổi: Sai lầm là khó tránh khỏi nhưng không thể dễ dãi với sai lầm, phạm sai lầm hết lần này lần khác. Đó là thái độ thiếu tôn trọng bản thân và người khác. Không thể đồng tình với hiện tượng không dám đối mặt với sai lầm, trượt dài trong sai lầm do thiếu hiểu biết, ý chí và bản lĩnh ở một bộ phận trong giới trẻ. Tuy sai lầm trong cuộc sống là khó tránh khỏi, song không vì vậy mà thiếu cân nhắc, suy xét khi hành động, bởi lẽ có những sai lầm khó có thể trả giá. 

* Kết thúc vấn đề nghị luận: Khái quát lại vấn đề, rút ra bài học:

- Nhận thức được ý nghĩa của sai lầm và đối diện với sai lầm. 

- Sẵn sàng hành động để sửa sai.

d. Diễn đạt (0.25 điểm)

Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.

e. Sáng tạo (0.5 điểm)

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.